Xã hội dân sự và phát triển quốc gia - Kỳ 1: Vốn xã hội
Từ lúc chính thức ngồi vào ghế tổng bí thư, ông Tô Lâm đã có một số diễn ngôn đưa
Anderson v. Cryovac, Inc., 805 F.2d 1 (1st Cir. 1986) là một trong những vụ kiện tụng liên quan đến môi trường đầu tiên và đình đám nhất nhất trong lịch sử tư pháp Hoa Kỳ.
Cuối những năm 70, một nhóm các gia đình ngụ tại thành phố Woburn bang Massachusetts phát hiện ra họ đều có chung một bi kịch: nhiều trẻ con trong các gia đình này đều bị chứng bệnh ung thư bạch cầu quái ác.
Các gia đình này đều không tin rằng đó chỉ là một sự tình cờ, đặc biệt sau khi báo chí thành phố Woburn rầm rộ đưa tin về việc cảnh sát phát hiện việc một số công ty đổ xả trái phép chất thải công nghiệp gần hai giếng nước là nguồn nước cho cộng đồng thành phố Woburn suốt nhiều năm. Năm đứa trẻ và một người lớn thuộc tám gia đình tại Woburn đã chết vì bệnh ung thư bạch cầu hoặc các tai biến của bệnh này. Tám gia đình này quyết định không chịu ngồi yên. Họ tìm tới văn phòng luật nhỏ của luật sư Jan Schlichtmann và các cộng sự.
Sau một quá trình điều tra thu thập chứng cứ, tháng 5 năm 1982, tám gia đình tại Woburn chính thức kiện ra tòa ba doanh nghiệp đã tham gia đổ xả chất thải gần nguồn nước của thành phố. Văn phòng luật nhỏ của luật sư Jan Schlichtmann và các cộng sự bắt đầu phải đối đầu với những công ty luật và luật sư danh tiếng của Mỹ vốn được đổ cả đống tiền từ những doanh nghiệp giàu có về tiền bạc nhưng nghèo nàn về đạo đức và trách nhiệm xã hội.
Câu chuyện của vụ Anderson v. Cryovac đã không có một cái kết David thắng Goliath giống kiểu chuyện cô nàng Erin Brockovich mà người ta thường mong đợi. Vụ kiện kết thúc bằng một thỏa thuận giàn xếp mà trong đó các doanh nghiệp bồi thường cho tám gia đình vỏn vẹn 8 triệu đô la, ít hơn rất nhiều so với mức đòi bồi thường.
Các luật sư thuộc văn phòng của luật sư Schlichtmann làm việc cho tám gia đình Woburn trong vụ việc phức tạp kéo dài 4 năm này đều gặp phải cảnh nợ nần chồng chất vì đã tốn quá nhiều thời gian và chi phí cho vụ việc này.
Bản thân luật sư Schlichtmann tán gia bại sản và bị người yêu bỏ. Tài sản của vị luật sư yêu công lý nhưng liều lĩnh này khi được kê khai tại tòa xử lý phá sản chỉ còn vỏn vẹn 14 đô la trong tài khoản, một cái radio và một đống quần áo.
Sau tất cả, luật sư Schlichtmann vẫn tiếp tục hành nghề chuyên về lĩnh vực môi trường và khôi phục sự nghiệp thành công. Vài năm sau vụ kiện, người dân thành phố Woburn cuối cùng cũng giành được công lý sau khi các doanh nghiệp xả thải bị Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường Hoa Kỳ kiện ra tòa thành công và bị buộc trả tiền cho việc tái tạo làm sạch nguồn nước bị ô nhiễm của thành phố Woburn.
Toàn bộ vụ Anderson kiện Cryovac được kể lại rất chi tiết và sống động trong cuốn sách Một Vụ Kiện Dân Sự (A Civil Action) của nhà báo Jonathan Harr. Tác phẩm này sau đó được dựng thành phim năm 1998 với tài tử John Travolta vào vai luật sư Schlichtmann.
Phần được trích dẫn từ Một Vụ Kiện Dân Sự trong Café Luật Khoa kỳ này cho chúng ta thấy một phần cuộc đối đầu nảy lửa trong phòng xử án giữa luật sư hai bên.
Trích đoạn “Một Vụ Kiện Dân Sự”- Jonathan Harr (Random House 1995):
“… Schlichtmann ước tính là ông phải dùng bốn đến năm tuần để hoàn thành phần trình bày về nguồn nước trong vụ việc. Nhìn chung nhiệm vụ của ông khá đơn giản. Ông phải chứng minh được là đất đai nhà xưởng của các công ty Grace và Beatrice đã bị nhiễm bẩn với chất TCE – Trichloroethylene (chất gây ung thư bạch cầu – ND) và các chất độc hại khác. Các chất này sau đó đã ngấm vào nước ngầm và lan đến các giếng nước của thành phố từ những năm 1960.
Ông sẽ yêu cầu triệu tập khoảng ba mươi nhân chứng, nhưng ông định là sẽ chủ yếu dựa vào tường trình của hai nhân chứng chuyên gia (expert witness).
Người đầu tiên là một nhà địa chất học, người sẽ miêu tả cho bồi thẩm đoàn mức độ nhiễm chất TCE của đất trong khuôn viên nhà xưởng của các công ty Grace và Beatrice, cũng như thời điểm ô nhiễm theo ý kiến của chuyên gia này. Chuyên gia thứ hai, một giáo sư đại học Princeton, một bậc đại thụ về nghiên cứu mạch nước ngầm, sẽ giải thích cách mà chất TCE đã thấm qua tầng ngậm nước và bị bơm vào các giếng nước G và H…
… Nhà địa chất học là John Drobinski. Ông đã cùng Schlichtmann giành nhiều ngày trước khi phiên tòa bắt đầu để chuẩn bị phần tường trình của ông. Năm vừa qua, Drobinski đã lãnh đạo một nhóm công nhân kiểm tra từng thước một phần đất đai nhà xưởng của Beatrice và Grace…
… Dựa trên những phát hiện của họ, đặc biệt từ các bức không ảnh chụp từ những năm 50 và 60 cho thấy rõ những đống rác thải, Drobinski sẽ bước lên bục nhân chứng và làm chứng trước tòa là phần đất nằm kế xưởng da thuộc của Beatrice đã bị nhiễm độc trong khoảng thời gian ít nhất là 25 năm.
Schlichtmann tính là ông sẽ cần khoảng ba ngày để dẫn dắt Drobinski đưa ra tường trình chống lại Beatrice.
“Tranh luận của bên nguyên dựa vào việc tạo đà từ từ,” luật sư Facher (Luật sư danh tiếng đại diện công ty Beatrice bên bị – ND) đã có lần nói thế với lớp luật trường Harvard mà ông giảng dạy. “Phần tranh luận của bạn càng ít bị phản đối, tranh luận của bạn càng tiến triển tốt hơn. Việc phản đối sẽ phá vỡ nhịp độ của một phần trình bày chứng cứ.”
Và thật sự là Facher phản đối liên tục. Ngày ra tòa thứ hai, trong buổi sáng mà Drobinski sẽ ra làm chứng, Facher đòi được thảo luận riêng với thẩm phán và luật sư các bên ngay tại bàn thẩm phán. Ông ta phản đối các tài liệu mà Schlichtmann dự định dùng làm bằng chứng dựa trên các lý do bao gồm tính không liên quan (relevance), bằng chứng gián tiếp (hearsay), tính xác thật của bằng chứng (authenticity), yêu cầu phải có bản gốc của bằng chứng (best evidence) và bằng chứng mang tính định kiến thái quá (undue prejudice).
“Cái báo cáo này tệ hại lắm,” Facher nói về một báo cáo của một nhân viên cơ quản bảo vệ môi trường. “Báo cáo này là thứ tồi tệ nhất mà tôi từng thấy.”
Facher phản đối các kết quả thử nghiệm đất của Drobinski và lại phản đối khi Drobinski trên bục nhân chứng tìm cách cho bồi thẩm đoàn thấy các bức hình ông đã chụp phần đất 6 héc-ta (phần đất bị nhiễm độc – ND). “Bọn họ phóng to tất cả mọi thứ!” Facher phàn nàn một cách thì thào với thẩm phán gần bàn ông này.
“Dĩ nhiên rồi,” Vị thẩm phán nói. “Nếu trình bày vụ việc cho bồi thẩm đoàn thì phải phóng to hình lên. Ông cảm thấy sốc vì việc đó sao?”
“Nhưng những hình phóng to này rất là xuyên tạc,” Facher cương quyết. “Nếu ngài nhìn thì ngài sẽ đồng ý. Hình này có bàn tay to như cái vợt tennis đây này.”
“Nếu ông muốn chỉ ra là không ai có bàn tay to như thế thì ông cứ việc nói trước tòa,” Vị thẩm phán nói…
…Suốt tuần ra tòa đầu tiên, sáng nào cũng là cảnh Drobinski bước lên bục nhân chứng và ngồi im hai tay đặt ra phía trước trong khi đám luật sư các bên túm tụm xung quanh bàn thẩm phán để tranh cãi hết điểm này đến điểm khác.
Sự gián đoạn liên tục diễn ra trong ngày. Facher thường sẽ đứng dậy để phản đối và yêu cầu được nói chuyện riêng với thẩm phản và các luật sư, và rồi các luật sư, bao gồm cả luật sư Cheesman và các luật sư đại diện công ty Grace, lại đứng lên và lục tục kéo nhau lên bàn thẩm phán để họp với những giọng nói khẽ tiếng nhưng khẩn trương. Những cuộc họp nhỏ như thế kéo dài khi thì vài giây, khi thì cả nửa tiếng đồng hồ.
Ngày ra tòa thứ tư, các phản đối của Facher dẫn đến hai mươi hai chuyến lên bàn thẩm phán.
Drobinski trong những lúc đó ngồi trên ghế trong bục nhân chứng trong khi các thành viên bồi thẩm đoàn ngồi trong khu vực bồi thẩm một cách chán chường và buồn ngủ. Bọn họ không được phép mang sách báo gì vào phòng xử án nên chỉ biết ngó mông lung lên trần nhà hay về phía các ghế dự khán của phòng xử án nơi đám đông hiếu kỳ bây giờ đã giảm xuống chỉ còn hơn một tá người.
Luật sư Nesson, chuyên gia về Các Quy Định Bằng Chứng Liên Bang của nhóm Schlichtmann, người biết nhiều về các lĩnh vực bằng chứng hơn bất kỳ ai trong phòng tòa, và có thể là hơn bất kỳ ai trong khu vực tài phán Số Một, thường đứng bên cạnh Schlichtmann trong các phiên họp gần bàn thẩm phán và cãi lại Facher. Ông cãi thắng được phần lớn các phản đối của Facher nhưng bản thân ông cũng càng lúc càng cảm thấy khó chịu.
“Thưa quý tòa,” Nessan nói với thẩm phán, không che dấu sự giận dữ, “Tôi muốn ngài ghi biên bản lại việc phía công ty Beatrice đang liên tục tìm cách phá hoại tiến trình vụ việc và làm gián đoạn phiên tòa này theo mọi cách họ có thể nghĩ ra được.”
“Tôi rất muốn đồng ý với ông,” Vị thẩm phán nói, “nhưng tôi nghĩ là bên phía các ông đã để việc này xảy ra vì các ông đòi đẩy vụ kiện ra xử trong khi các ông chưa sẵn sàng.”
Thẩm phán Skinner dĩ nhiên là đang rất nóng lòng giữ đúng lịch xử án. Có lẽ vì thế mà ông ta có vẻ sẵn sàng chấp nhận một số phản đối nhỏ mọn của Facher. Và không phải phản đối nào của Facher cũng vụn vặt.
Vào ngày toà thứ bảy, Drobinski vừa chuẩn bị nói ra ý kiến chuyên gia của ông về thời điểm đất nhiễm độc, Facher cãi là không có cơ sở khoa học vững chắc cho ý kiến của Drobinski. Facher cho rằng ý kiến này dựa trên cơ sở việc đào xuống đất tìm được mấy lon bia, chặt một cái cây và nhìn vào mấy tấm không ảnh. Facher chấp nhận rằng có thể mấy đống rác thải đã ở đó từ hơn ba mươi năm trước nhưng không ai có thể nói điều đó với một sự chắc chắn mang tinh khoa học rằng đất đã bị nhiễm TCE từ khi đó. Ai đó hoàn toàn có thể tới chỗ đất đó năm 1979 khi mấy cái giếng nước vừa mới bị đóng và đổ TCE lên đống rác thải.
Vì lý do đó, Facher yêu cầu thẩm phán loại trừ ý kiến của Drobinski và theo đó là xử thắng cho Beatrice luôn và ngay.
Thẩm phán Skinner có vẻ muốn đồng ý với Facher. Luật sư Nesson thì cảnh báo rằng một quyết định như thế sẽ là một sai sót trầm trọng và gây tốn kém vốn chắc chắn sẽ bị Toà Thượng Thẩm bác.
Nesson tranh luận là theo Điều 702 Các Quy Định Bằng Chứng Drobinski có tất cả các tiêu chuẩn cần thiết để được xem là một chuyên gia. Vì thế việc tin vào tường trình của Drobinski hay không là quyết định của bồi thẩm đoàn chứ không phải của thẩm phán.
Tranh luận diễn ra cả buổi sáng. Mười hai vị bồi thẩm trong lúc đó ngồi chờ trên lầu trên trong phòng bồi thẩm nóng bức. Giữa trưa, thẩm phán Skinner cho toà nghỉ để ông suy xét vụ việc.
Khi ông ta trở lại, ông nói với các luật sư rằng quyết định của ông là một quyết định “rất suýt soát”. Ý kiến của Drobinski không thể được gọi đúng đắn là “khoa học” – “Anh ta chỉ nhìn vào đất theo đúng cách mà ai đã đào hố trên đất cũng có thể nhìn,” vị thẩm phán nói. Tuy nhiên, dựa theo tranh luận của Nesson, vị thẩm phán quyết định là ông sẽ cho phép Drobinski trình bày ý kiến trước bồi thẩm đoàn.
Nesson đã lập chiến công. Mình ông đã cứu cả đơn kiện chống Beatrice. Khi quay trở lại văn phòng chiều hôm đó, Schlichtmann rất đắc chí. “Charlie, cậu đá lọt lưới lão thẩm phán!” Schlichtmann reo mừng hân hoan, xoè mấy ngón tay ra như một kẻ làm nghề xoa bóp có phép thần. “Cậu chạm được vào não lão già ôn dịch ấy!”
Nhưng thời gian ngồi bục thẩm phán của Drobinski chưa hết. Thực sự những khốn khổ của ông ta mới chỉ bắt đầu. Vào một chiều thứ sáu, cuối tuần ra toà thứ hai, Facher bắt đầu phần thẩm vấn chéo.
Phần này sẽ kéo dài đến hết cả tuần thứ ba. Facher tìm cách đóng khung Drobinski thành một nhân chứng có khuynh hướng thiên vị và không thành thực, được trả nhiều tiền cho tường trình của ông ta để chỉ tìm những thông tin bất lợi cho công ty Beatrice.
Facher hỏi, có phải không là phần lớn đất đai trong khu vực 6 héc-ta “sạch sẽ” và đầy “những bông hoa dại nhỏ màu xanh dương”? Có thật là chỉ có 6 trong số 19 mẫu đất mà Drobinski khoan được là có chứa TCE? Drobinski có đang nói sự thật với bồi thẩm đoàn? Có thật không là mức độ nhiễm TCE cao nhất chỉ có ở phần bề mặt của đất? Và càng đào xuống sâu thì mức độ TCE càng giảm? Như vậy có nghĩa là sự nhiễm độc chỉ mới có gần đây thôi chứ không phải là có từ 20 năm về trước? Sự thật như thế chẳng phải quá rõ ràng với mọi người rồi ư?
“Con người rất tham lam,” Facher có lần nói với lớp Harvard mà ông dạy. “Vấn đề lớn nhất với các nhân chứng là phần lớn trong số họ hay nói quá lên.” Trong phần tường trình trước khi ra toà của Drobinski, Facher đã phát hiện một sự sai lệch và bây giờ ông ta lôi nó ra cho bồi thẩm đoàn thấy.
Drobinski đã khai là ông ta có bằng thạc sỹ địa chất năm 1976, nhưng Facher, không chấp nhận dễ dàng bất cứ gì, đã phát hiện ra là Drobinski nhận bằng thạc sỹ này năm 1979 chứ không phải 1976.
“Chẳng phải ông đã nói trong lời khai có tuyên thệ của ông là ông có bằng này năm 1976?” Facher hỏi.
“Thưa ông,” Drobinski trả lời, “Hội đồng giám khảo và khoa địa chất bảo với tôi rằng tôi đã đậu bằng này.”
“Ông được bảo? Ông đang nói với tôi là ông được một bằng thạc sỹ “bằng mồm” năm 1976?” Giọng Facher đầy hoài nghi. “Ông muốn bồi thẩm đoàn tin điều đó sao? Ông có biết trường đại học nào trên thế giới phát bằng “bằng mồm” chưa?”
Sau đó, Facher cho Drobinski thấy một bản copy của một đơn xin tiểu bang Oregon xác nhận Drobinski là một nhà địa chất học trong đó có phần tuyên thệ của Drobinski.
“Chẳng phải ông đã tuyên thệ chấp nhận mọi hình phạt cho việc gian dối và sau đó nói rằng ông được nhận bằng năm 1976?”
Drobinski đọc đơn và xác nhận “Vâng, thưa ông, đơn này ghi thế.”
“Ông đã cố tình tìm cách xin giấy chứng nhận của tiểu bang Oregon bằng một đơn xin có chứa thông tin sai lệch, đúng không?”
“Tôi không miêu tả việc đó như cách ông nói,” Drobinski trả lời.
“Những thông tin ông đưa ra là đưa ra với tuyên thệ đúng không?”
“Đúng, thưa ông.”
“Đơn này ghi ‘1976’ ngay cạnh phần ‘bằng thạc sỹ’ đúng không?”
“Vâng, thưa ông.”
“Ông đã cho tiểu bang Oregon biết là ông đã có một bằng thạc sỹ vào một năm lúc ông chưa hề có bằng này, đúng không?”
Phiên thẩm vấn chéo cứ thế diễn ra hết ngày dài, Facher tìm cách xoáy vào sai sót nhỏ nhưng có trọng lượng nói trên nhằm làm cho bồi thẩm đoàn cảm thấy nghi ngờ sự xác thực trong những gì Drobinski đã nói ra.
Schlichtmann ngồi yên tại bàn. Ông trông hoàn toàn bình thản, vẻ mặt bí hiểm không biểu lộ. Thật ra bên trong ông đang sôi sùng sục. Nếu như đây là một phiên trao đổi khẩu cung trước khi ra toà, ông đã lên tiếng phản đối cả chục lần và cãi vã tưng bừng với Facher rồi.
Nhưng bây giờ, trong phòng xử án, ông hiếm khi phản đối các câu hỏi của Facher ngay cả khi ông có lý do chính đáng. Ông ghét việc phản đối trước mặt bồi thẩm đoàn. Ông không muốn một bồi thẩm viên nào có ấn tượng là ông đang tìm cách che đậy điều gì đấy mượn danh chi tiết kỹ thuật pháp lý.
Schlichtmann hơi quay đầu qua bên phải để có thể thấy từ khoé mắt Drobinski đang ngồi trên bục nhân chứng. Nhà địa chất học dáng gầy nhưng đanh người, có một vầng trán rộng và hàng ria mép đậm. Ông ta ngồi thẳng ra phía trước sát mép ghế, đúng như Schlichtmann đã dặn. Hai tay Drobinski nắm nhẹ vào nhau và đặt trên mặt bàn gỗ phía trước ông ta.
Schlichtmann nghĩ rằng Drobinski đang thể hiện rất tốt trong tình trạng lúc đó. Drobinski trả lời Facher một cách lịch sự, luôn gọi Facher ‘thưa ông’, và không bao giờ lớn tiếng hay cho thấy là ông ta đang phát cáu. Schlichtmann có thể thấy Facher đứng với hai chân bệt vẹo ra trước nhà địa chất học, hai tay Facher khép ngang trước ngực, hai vai ông ta gù xuống. Một gã lùn tịt mắt ti hí với cặp kính dầy cộm. Môi ông ta mím lại đầy vẻ hoài nghi nặng nề…”
Bạn đọc có thể tìm đọc thêm:
Sách“Một Vụ Kiện Dân Sự”- Jonathan Harr (Random House 1995) trên Amazon
Phim “Một Vụ Kiện Dân Sự” có John Travolta thủ vai Jan Schlichtmann
Jan Schlichtmann trong một buổi diễn giảng tại trường đại học Barry năm 2014
Tóm tắt vụ Anderson kiện Cryovac của trường Carleton College
Lời giới thiệu Column của Ban Biên Tập LKTC: Luật Khoa tạp chí xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một chuyên mục hàng tuần mới: Café Luật Khoa. Mỗi sáng chủ nhật hàng tuần, Café Luật Khoa sẽ tuyển chọn và đăng một đoạn trích từ một quyển sách, một bài diễn thuyết hoặc một tài liệu thú vị, giàu cảm hứng và khơi gợi suy nghĩ về các đề tài luật pháp và chính trị từ các tác giả cả trong và ngoài nước, hiện đại lẫn kinh điển. Hy vọng chuyên mục này có thể giới thiệu được đến với bạn đọc những tác phẩm luật và chính trị sâu sắc, nhiều ý nghĩa, để có thể làm giàu thêm cho tủ sách và vốn đọc của các bạn. |