Thư cuối tuần - 24/11/2024
Đây là Thư cuối tuần của Luật Khoa tạp chí. Thư tin này chỉ làm một việc đơn giản là
Cách đây hơn một trăm năm, nước Mỹ tư bản cũng đã có một ví dụ tương tự, đó là cuộc đình công của công nhân ngành than ở Pennsylvania năm 1902.
Vụ việc đã đi vào lịch sử như một bước ngoặt trong chính sách ở Hoa Kỳ, đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò của việc đảm bảo thông tin minh bạch, chính xác trong tiến trình chính sách. Ngoài ra, nó còn làm nổi bật vai trò của một vị tổng thống mà đến nay vẫn được nhắc đến với sự mến mộ: Theodore Roosevelt.
Thứ sáu, ngày 3/10/1902, Tổng thống Theodore Roosevelt triệu tập một cuộc họp chưa từng có tiền lệ, tại khuôn viên của Nhà Trắng (lúc bấy giờ ở số 22 Lafayette Place, Washington, D.C.). Cuộc họp diễn ra trong bối cảnh đang có đình công lớn và kéo dài ở các mỏ than antraxit của bang Pennsylvania, đe dọa an ninh năng lượng của cả nước. Bản thân ông Roosevelt thì trước đó một tháng, vừa bị tai nạn khi chiếc xe ngựa chở ông bị xe điện tông phải.
Roosevelt lo sợ “có những điều chưa ai biết đến… và khả năng bạo loạn chắc chắn sẽ leo thang thành xung đột trong xã hội”. Và mặc dù về mặt pháp lý, Tổng thống không có quyền can thiệp, nhưng ông vẫn gửi điện tín đến cả hai phía (chủ mỏ và công nhân), mời họ tới Washington để thảo luận, tìm giải pháp cho khủng hoảng.
Tại cuộc họp, ngồi trên xe lăn, Tổng thống kêu gọi tinh thần yêu nước của các bên, để sẵn sàng “hy sinh cá nhân vì lợi ích chung”.
Sau này, lịch sử ghi nhận rằng cuộc gặp hôm ấy đã đánh dấu sự chuyển đổi của chính quyền liên bang Hoa Kỳ từ vai trò “ngăn chặn đình công”, “phá đình công” sang vai trò “kiến tạo hòa bình” trong các xung đột, tranh chấp phát sinh trong nền sản xuất công nghiệp.
Vào thế kỷ 19, mỗi khi đình công nổ ra, các tổng thống Mỹ hoặc không có động thái gì, hoặc nếu có thì sẽ đứng về phía giới chủ chống lại công nhân.
Tổng thống Andrew Jackson (nhiệm kỳ 1829-1837) từng “phá đình công” vào năm 1834 khi ông điều quân đội đến công trình kênh đào Chesapeake và Ohio. Năm 1877, ngành đường sắt đình công, Tổng thống Rutherford B. Hayes (nhiệm kỳ 1877-1881) huy động quân đội đàn áp. Năm 1894, Tổng thống Grover Cleveland (hai nhiệm kỳ, 1885-1889 và 1893-1897) cũng cho quân đội phá cuộc “Đình công Pullman” của đường sắt toàn quốc. Thậm chí, năm 1886, ông Cleveland còn đề nghị Quốc hội “lồng ghép” vào Uỷ ban Lao động (tiền thân của Bộ Lao động sau này) một cơ quan có chức năng ngăn chặn các cuộc đình công lớn.
Bối cảnh năm 1902Vào cuối thế kỷ 19, ngành than antraxit đã trở thành một ngành độc quyền tự nhiên ở nước Mỹ. Nguồn sản xuất tập trung cả vào các mỏ nằm trên một diện tích vài trăm kilomet vuông, thuộc 5 hạt ở bang Pennsylvania. Công nhân làm việc rất vất vả trong điều kiện nhiều rủi ro. Giới chủ còn duy trì mức lương thấp bằng cách thuê thật nhiều lao động từ Đông Âu và Nam Âu. Thống kê cho thấy có khoảng 150.000 công nhân, đến từ 14 nước khác nhau, nói ngôn ngữ khác nhau, phong tục cũng khác nhau.
Dù sao, bối cảnh của năm 1902 cũng có một cái lợi cho công nhân, đó là rất nhiều người trong số họ đã ký hợp đồng hợp tác với tổ chức có tên “Công nhân mỏ đoàn kết” (United Mine Workers, UMW), một công đoàn đại diện cho quyền lợi của họ, với khoảng 115.000 thành viên tính đến những năm cuối thế kỷ 19. (Tuy nhiên, chỉ có 8.000 trong số họ làm việc ở Pennsylvania). Năm 1898, John Mitchell trở thành chủ tịch của công đoàn này khi còn rất trẻ, 28 tuổi.
Ngoài ra, phần lớn công nhân mỏ tham gia cuộc đình công năm 1902 là người Công giáo. Có thể đây cũng là điểm thuận lợi bởi nó khiến họ có xu hướng đoàn kết và hợp tác với nhau hơn.
Tiến trình tranh đấuCông nhân mỏ đòi tăng lương và giảm giờ làm, tuy nhiên giới chủ than vãn rằng lợi nhuận của ngành đang thấp trong khi công đoàn cứ khuyến khích sự vô kỷ luật. Các chủ mỏ từ chối đàm phán.
Trước tình hình đó, John Mitchell đề nghị hai bên hòa giải thông qua Liên đoàn Dân sự Quốc gia, và nếu không được, thì một ủy ban gồm các giáo sĩ, linh mục sẽ vào cuộc, làm báo cáo điều tra về tình hình ở các mỏ than. Phía giới chủ đáp lại: “Khai thác mỏ antraxit là một ngành công nghiệp chứ không phải chuyện tôn giáo, tình cảm hay học thuật”.
Ngày 12/5/1902, đình công chính thức bắt đầu.
Ban đầu, vẫn còn hy vọng đình công sẽ được giải quyết ổn thỏa, bởi lính cứu hỏa, kỹ sư, thợ bơm nước vẫn làm việc. Tuy nhiên, vào ngày 2/6, đội ngũ này cũng đình công nốt. Một cuộc chiến đấu khốc liệt giữa đôi bên – chủ và công nhân – bắt đầu và kéo dài dai dẳng: 147.000 người đình công, trong đó, 30.000 người bỏ đi nơi khác, chẳng hạn về lại châu Âu (khoảng 8.000-10.000 người). Và mặc dù Mitchell kêu gọi đình công ôn hòa, nhưng công nhân vẫn có những phản ứng bạo lực, chẳng hạn, tấn công những người chống đình công, khủng bố gia đình họ, đánh luôn cả đội ngũ cảnh sát có vũ trang được các chủ mỏ thuê đến (cảnh sát tư).
Tổng thống Theodore Roosevelt lúc đó vừa nhậm chức, thay thế người tiền nhiệm William McKinley bị ám sát. Ông cho rằng cả các chủ tư bản lẫn người lao động đều cần phải có trách nhiệm trước cộng đồng.
Ngày 8/6/1902, Roosevelt yêu cầu Đặc ủy lao động Mỹ Carroll D. Wright tiến hành điều tra về cuộc đình công và báo cáo lại.
Wright không trực tiếp đến các mỏ than vì cảm thấy rằng, với tư cách người đại diện cho Tổng thống, sự hiện diện của ông ở đó sẽ gây hại nhiều hơn lợi. Ông đến New York, tại đây, ông tiến hành phỏng vấn các chủ mỏ, nhà tài chính, đốc công, giám sát thi công. Về phía đại diện của công nhân, ông cũng mời cả Chủ tịch công đoàn John Mitchell. Wright làm việc rất tận tụy và sau 12 ngày, ông gửi đến Tổng thống một báo cáo chi tiết, có cả bảng biểu, số liệu thống kê.
Wright tường trình rằng cả hai phía đều đã hợp tác với ông trong quá trình điều tra, và việc có những quan điểm khác biệt chỉ đơn thuần là do lập trường khác nhau chứ không phải do có bên nào xuyên tạc tình hình. Wright cũng cố gắng lập báo cáo trên cơ sở sự thực, dữ kiện thực tế, chứ không lồng tình cảm vào. Ông giải thích đầy đủ về nguyên nhân sâu xa, nguồn gốc của cuộc đình công, yêu sách của công nhân, những đòi hỏi và phàn nàn từ giới chủ, các bất đồng về cân đong than, về mức lương, chi phí sản xuất, lợi nhuận và chuyên chở.
Wright đề xuất thử giảm số giờ công từ 10 xuống 9 tiếng một ngày, bảo vệ những người không phải thành viên công đoàn, tổ chức một ủy ban hòa giải chung, và đặc biệt, cho áp dụng quyền mặc cả tập thể bất cứ khi nào có thể. Ông mong những đề xuất này có thể “góp phần đưa đến một ngày, khi mà ngành sản xuất than antraxit sẽ được quản lý công bằng hơn và theo những tiêu chuẩn đạo đức cao hơn…”.
Bản báo cáo của Wright làm dấy lên hy vọng về khả năng giải quyết khủng hoảng sớm. Các công nhân mỏ háo hức chờ nó được ấn hành.
Báo chí cho rằng Tổng thống có phần thiên vị báo cáo, còn báo cáo thì bênh vực những người thợ mỏ. Wright giận dữ bác bỏ điều này. Tháng 8/1902, báo cáo được công bố trước dư luận.
Thế lưỡng nan của Tổng thốngĐình công vẫn kéo dài. Tổng thống Roosevelt đứng ngồi không yên. Tổng chưởng lý Philander Knox khuyên Tổng thống không nên can thiệp, vì không có quyền. Trong khi đó, giới chủ mỏ tỏ rõ quyết tâm bẻ gãy các cuộc đình công, và họ bác bỏ mọi đề xuất hòa giải từ phía công đoàn, nói rằng “chẳng có gì để đàm phán cả”.
Công đoàn gửi cho phát ngôn viên George Baer của giới chủ mỏ một bức thư kêu gọi ông ta nhượng bộ, với tư cách một người Cơ Đốc lương thiện. Đáp lại, Baer viết: “Quyền và lợi ích của người lao động sẽ được bảo vệ và chăm sóc, nhưng không phải bởi những kẻ kích động, mà bởi những Cơ Đốc nhân được Chúa sáng suốt ban cho quyền kiểm soát tài sản của đất nước”. Ngay sau đó, công đoàn đã khôn khéo tận dụng lá thư này, đẩy mạnh yếu tố “quyền thiêng liêng”, “quyền thần thánh” mà Baer đề cập tới. Kết quả là công luận ngả sang ủng hộ công nhân và phản đối chủ mỏ.
Tổng thống Roosevelt lúng túng. “Trên nguyên tắc, chính quyền liên bang chẳng có quyền làm gì” – ông than thở với Thượng nghị sĩ Henry Cabot Lodge (bang Massachusetts). “Tôi không biết phải xử lý sao”. Mùa đông càng đến gần, giá than càng tăng. Roosevelt lo lắng. Ông quyết định đưa các bên xích lại gần nhau.
Đối đầu lịch sửTại cuộc gặp lịch sử, Roosevelt mời đại diện của chính quyền địa phương, lao động và giới chủ. Tổng chưởng lý Knox, Đặc ủy lao động Carroll D. Wright đều tham dự. “10 người có mặt trong phòng tôi vào ngày 10/3” – ông viết. “Tôi vẫn chưa rời xe lăn được”.
Roosevelt cũng nói rõ rằng ông không có quyền can thiệp, nhưng “tính chất nghiêm trọng của khủng hoảng vẫn lơ lửng đó” buộc ông phải sử dụng ảnh hưởng của mình để “chấm dứt một tình trạng đã trở nên không thể chịu nổi”.
Mitchell, theo đánh giá của Roosevelt, “đã cư xử với sự tự trọng và điềm tĩnh tuyệt vời”, trong khi giới chủ mỏ “ngược lại, thể hiện sự ngu ngốc kỳ lạ và thái độ rất tệ”. Bên chủ mỏ tỏ ra xấc xược, liên tục buộc tội Mitchell là “kẻ cầm đầu những thành phần kích động và cực đoan, gây ra cái chết của 21 người và ngăn cản hàng nghìn người được đi làm việc, bằng đe dọa và vũ lực”.
Các chủ mỏ yêu cầu Tổng thống, thay vì tốn thời gian đàm phán với “những kẻ kích động tình trạng vô chính phủ” thì nên sử dụng quyền lực nhà nước để “bảo vệ những người thợ muốn lao động, cũng như bảo vệ vợ con anh ta”. Nếu được bảo vệ thích đáng, họ sẽ sản xuất đủ than để xử lý khủng hoảng thiếu nhiên liệu. Họ cũng giận dữ từ chối mọi nỗ lực hòa giải của Tổng thống, từ chối giao thiệp với Mitchell.
Tổng thống Roosevelt không cho rằng phía thợ đình công là hoàn toàn vô tội, nhưng ông không đồng ý với quan điểm của phía chủ mỏ là “không có gì để đàm phán cả”. Ông tin vào báo cáo của Carroll D. Wright, rằng “chắc chắn cả hai phía đều có đúng có sai”, tuy nhiên, phía chủ mỏ không có lý do gì để từ chối hòa giải.
Những nỗ lực không mệt mỏiKhông thấy triển vọng thành công, Tổng thống quyết định mời Carroll D. Wright tiến hành điều tra tiếp. Cựu tổng thống Grover Cleveland khuyên Roosevelt rằng các thợ mỏ cứ nên trở lại làm việc, rồi đàm phán giải quyết mọi chuyện sau. Roosevelt hoan nghênh sự ủng hộ của Cleveland và đề nghị mở rộng cuộc điều tra của Wright, bằng cách mời Cleveland và một số nhân vật nổi tiếng khác “tham gia cùng” Wright. “Tôi chân thành năn nỉ ngài chấp thuận việc này” – ông viết cho Cleveland.
Cựu tổng thống Cleveland miễn cưỡng đồng ý và cũng chấp nhận bán lỗ toàn bộ cổ phần trong ngành than đường sắt của mình để tránh xung đột lợi ích.
Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Elihu Root cũng lo lắng. Vốn là một luật sư nổi tiếng chuyên về luật doanh nghiệp, và là bạn của tỷ phú ngân hàng J. P. Morgan, Root nói với Roosevelt rằng ông muốn đứng ra hòa giải theo một cách không có sự tham dự của Tổng thống. Ngày 11/10/1902, Root gặp riêng Morgan ở New York, trên du thuyền của Morgan, và cùng nhau soạn thảo một đề xuất hòa giải bằng trọng tài.
Giới chủ mỏ, lo sợ dư luận ngày càng ghét họ và chịu sức ép từ Morgan, cuối cùng đã chấp nhận khuyến nghị từ Root và Morgan. Họ đồng ý có trọng tài phân xử. Tuy nhiên, họ không chấp nhận đàm phán với Mitchell trên tư cách của Mitchell là Chủ tịch công đoàn UMW. Họ chỉ coi Mitchell là phát ngôn viên của những người thợ mỏ. Thêm vào đó, họ yêu cầu ủy ban hòa giải chỉ có 5 thành viên, gồm một kỹ sư quân sự, một kỹ sư mỏ, một thẩm phán, một chuyên gia trong ngành kinh doanh than, và một “nhà xã hội học danh tiếng”.
Mitchell thì muốn Tổng thống bổ sung vào ủy ban một người lao động – người mà chắc chắn hiểu rõ quan điểm của phía công nhân – và một linh mục Công giáo, bởi phần lớn thợ mỏ đình công theo Công giáo.
Roosevelt bèn đề cử E. E. Clark – lãnh đạo công đoàn trong ngành dây dẫn đường sắt – làm “nhà xã hội học tài năng”, cách gọi mà chắc Clark trước đó chưa bao giờ nghe đến. Ông cũng thuyết phục được các chủ mỏ mời thêm một vị giám mục Công giáo vào ủy ban trọng tài. Và cuối cùng, ông chỉ định Wright làm thành viên thứ bảy.
Điều quan trọng nhất trong việc thành lập ủy ban trọng tài, đó là việc cả hai phía, thợ mỏ và chủ mỏ, đều đã đồng ý rằng mọi tranh chấp cần phải được phân xử bởi trọng tài. Cả hai phía cũng nhất trí rằng sẽ tuân thủ mọi quyết định của ủy ban.
Vào ngày 23/10/1902, cuộc đình công kéo dài 163 ngày chấm dứt. Buổi sáng hôm sau, Tổng thống Roosevelt gặp gỡ cấp tốc ủy ban trọng tài, yêu cầu họ cố gắng thiết lập quan hệ tốt giữa chủ và công nhân ở các khu mỏ và tiếp tục giải quyết đình công.
Tiếp sau đó là quá trình nghe điều trần từ các bên. Trước khi bắt đầu nghe điều trần, ủy ban trọng tài dành một tuần đi thị sát khu mỏ. Phía chủ tình nguyện bố trí một chuyến tàu hỏa đặc biệt để đưa đón họ, đồng thời, đề nghị họ đến thăm những mỏ do cả hai phía chọn ra. Tuy thế, ủy ban từ chối đề nghị này. Họ muốn quan sát trực tiếp tình trạng ăn ở và lao động của công nhân mỏ.
Carroll D. Wright hết sức bận rộn. Ông dùng một phần lớn nguồn lực của Bộ Lao động (khi đó có tổng ngân sách hàng năm là 183.000 USD) để hỗ trợ công việc của ủy ban. Ông mời thêm các chuyên viên đặc biệt, chuyên gia, thư ký, đến khu mỏ để tìm hiểu thông tin giá cả các mặt hàng mà thợ mỏ thường mua. Ông thường xuyên nhấn mạnh với họ về “nhu cầu khẩn cấp” phải có dữ liệu đầy đủ, và thậm chí khuyến khích họ thuê phiên dịch, nếu công nhân là lao động ngoại quốc nhập cư.
Ủy ban trọng tài, sau cuộc thanh tra thị sát, họp nhau lại trong gần ba tháng để nghe điều trần. 558 nhân chứng đã ra điều trần, trong đó có 240 đại diện cho thợ mỏ, 153 đại diện cho thợ mỏ không phải thành viên công đoàn, và 154 người đại diện cho chủ mỏ. 10.047 trang tài liệu đã được trình bày. John Mitchell đóng vai trò nổi bật trong việc trình bày vụ việc từ phía các thợ mỏ.
Công nhân đòi tăng lương 20%, giảm giờ làm xuống 8 tiếng/ngày. Sau quá trình phân xử, phần lớn được tăng lương 10%, làm 9 tiếng/ngày thay vì mức 10 tiếng phổ biến thời gian đó. Chủ mỏ vẫn không công nhận công đoàn độc lập UMW, song John Mitchell lạc quan cho rằng UMW đã giành được chiến thắng trên danh nghĩa, mà quan trọng nhất là đã thành lập được ủy ban trọng tài để giải quyết tranh chấp, mà không chịu sự chi phối của chủ mỏ.
Đình công và lợi ích chungNhà hoạt động công đoàn nổi tiếng của Mỹ, Samuel Gompers (1850-1924), hồi tưởng: “Thỉnh thoảng lại có người hỏi tôi sự kiện nào là quan trọng nhất trong phong trào lao động Mỹ, và tôi luôn luôn đáp rằng, đó là cuộc đình công của công nhân mỏ than antraxit ở Pennsylvania… Kể từ thời điểm ấy, thợ mỏ không còn là những cỗ máy-người thuần túy chỉ sản xuất than nữa, mà họ đã trở thành con người, thành công dân. Cuộc đình công là bằng chứng rõ rệt về hiệu quả của công đoàn”.
Chiến thắng của công nhân mỏ cũng thổi một sức sống mới vào phong trào lao động Mỹ: Nó hỗ trợ đắc lực cho những lãnh đạo công đoàn ôn hòa và các chủ lao động cấp tiến – những người đề cao đàm phán, cho rằng đàm phán là cách kiến tạo hòa bình. Nó còn làm gia tăng uy tín của Tổng thống Theodore Roosevelt.
Và một điều nữa, đôi khi cũng bị người ta quên mất, đó là sự việc đã đưa đến một thay đổi lớn về vai trò của chính quyền liên bang trong các vụ đình công mang tầm quốc gia.
Trong báo cáo của mình, ủy ban trọng tài đã thận trọng tóm tắt trách nhiệm của chính quyền liên bang trong “các vụ việc liên quan đến lợi ích chung”:
“Người dân có quyền được biết sự thật, để có thể xác định trách nhiệm. Để làm được điều này, phải trao quyền cho những đại diện được sự ủy nhiệm của người dân, để các đại diện đó hành động vì dân, thay cho dân, bằng cách tiến hành điều tra toàn diện”.
Roosevelt phát biểu điều này một cách mãnh liệt hơn. Những lá thư của ông có các dòng như:
“Không một người thông minh nào có thể bác bỏ một điều: Trong vụ đình công than antraxit này, công chúng có lợi ích liên quan”.
“Chính quyền liên bang đại diện cho lợi ích chung của toàn thể dân chúng”.
Dự thảo lời tuyên bố của ông gửi cho các chủ mỏ và lãnh đạo công đoàn tại cuộc họp ở Nhà Trắng hôm 3/10/1902 có viết: “Không được tạo tiền lệ chính quyền can thiệp vào đình công”.
Tuy nhiên, vì biết rằng chính mình đang phá bỏ tiền lệ cũ, nên Roosevelt cuối cùng đã xóa câu này khỏi tuyên bố chính thức. Ông hiểu rằng trong điều kiện bình thường, ông không có quyền can thiệp vào đình công. Nhưng Roosevelt không phải loại người ngồi đó mà không làm gì. Như ông đã nói với Tổng chưởng lý và Bộ trưởng Bộ Chiến tranh, “hành động có thể tạo ra một tiền lệ xấu”, nhưng ông thà chịu rủi ro bị Quốc hội đem ra luận tội và cách chức còn hơn là để đất nước rơi vào hỗn loạn.
Các nỗ lực của Roosevelt cuối cùng đã thành công. Các bên đều tán thành kết luận của ủy ban trọng tài, và tình hình các mỏ than yên bình trở lại. Quan trọng nhất là, trong dài hạn, cuộc xung đột đã xác lập một vai trò mới cho chính quyền liên bang trong các tranh chấp về lao động.
Trong suốt cuộc đối đầu lịch sử giữa các chủ mỏ than và công nhân vào ngày 3/10/1902, Roosevelt luôn nói: “Tôi phát biểu không phải vì giới chủ mỏ cũng không phải vì các công nhân, mà vì toàn thể cộng đồng”.
Ông đã cố gắng để cả hai bên hiểu và chấp nhận sự thật rằng: Bên thứ ba – cả xã hội – có lợi ích và quyền lợi sống còn, và từ đó, ông tạo ra tiền lệ để chính quyền liên bang can thiệp vào các tranh chấp về lao động, nhưng không phải với tư cách kẻ phá đình công mà với tư cách là người đại diện cho lợi ích công.