Luật sư môi trường Rob Bilott – cơn ác mộng của tập đoàn hoá chất Dupont

Rob Bilott là một luật sư tranh tụng người Mỹ chuyên bảo vệ cho các tập đoàn hoá chất suốt 8 năm. Đột nhiên, ông nhận một vụ kiện môi trường vào năm 1999, giúp hàng nghìn người dân chống lại một trong những tập đoàn hoá chất lớn nhất thế giới: Dupont.

Luật sư môi trường Rob Bilott – cơn ác mộng của tập đoàn hoá chất Dupont

Chỉ vài tháng trước khi Rob Bilott trở thành thành viên hợp danh ở hãng luật Taft Stettinius & Hollister thì ông nhận được điện thoại của một người nông dân chuyên nuôi gia súc.

Người nông dân, Wilbur Tennant ở Parkersburg, bang West Virginia, nói rằng đàn bò của ông ta đang bị chết hàng loạt. Ông ta tin rằng công ty hóa chất DuPont, mà cho đến thời gian gần đây vẫn hoạt động tại một địa điểm thuộc Parkersburg với diện tích lớn gấp 35 diện tích Lầu Năm Góc phải chịu trách nhiệm về thảm họa vừa nói. Tennant đã cố gắng tìm sự trợ giúp ở địa phương, ông nói, nhưng DuPont gần như làm chủ toàn bộ thị trấn. Ông không chỉ bị các luật sư mà còn bị các chính trị gia, các nhà báo, các bác sĩ và bác sĩ thú y của Parkersburg hắt hủi.

  • Dịch từ:
The Lawyer Who Became DuPont’s Worst Nightmare

(The New York Times), ngày 6/1/2016.

Ông nông dân này rất tức giận và nói bằng giọng khá khó nghe của khu vực Appalachia. Khó khăn lắm Bilott mới hiểu được tất cả những chuyện mà người nông dân này nói. Ông có thể đã bỏ máy nếu Tennant không nói ra tên của bà ngoại của ông, bà Alma Holland White.

Bà White từng sống ở Vienna, ngoại ô phía bắc của Parkersburg, và, khi còn bé, mùa hè Bilott thường tới thăm bà. Năm 1973, bà đã đưa Bilott đến trại nuôi gia súc của gia đình Grahams, bạn của bà và cũng là hàng xóm của Tennant. Bilott dành cả kì nghỉ cuối tuần đó cho việc cưỡi ngựa, vắt sữa bò và xem cuộc đua ngựa được phát trên TV. Lúc đó cậu mới lên 7. Chuyến thăm trang trại của gia đình Grahams là một trong những kỷ niệm vui nhất trong thời thơ ấu của ông.

Năm 1998, khi Grahams nghe tin nói rằng Wilbur Tennant đang tìm kiếm sự trợ giúp pháp lý, thì họ liền nhớ tới Bilott, cháu nội của White, đang là luật sư trong lĩnh vực môi trường. Nhưng họ không hiểu rằng Bilott không phải là kiểu luật sư môi trường mà họ đang cần. Bilott không phải là người đại diện cho nguyên đơn hay những công dân bình thường.

Tương tự như 200 luật sư khác ở công ty luật Taft – công ty này được thành lập vào năm 1885 và có liên hệ về mặt lịch sử với gia đình của Tổng thống William Howard Taft – Bilott hầu như chỉ làm cho những khách hàng lớn. Chuyên môn của ông là bảo vệ các công ty hóa chất. Đã mấy lần, Bilott thậm chí còn làm việc với các luật sư của DuPont trong các vụ tranh tụng. Tuy nhiên, do yêu quý bà, ông đồng ý gặp người nông dân.  “Tôi cảm thấy ngay rằng đây là việc phải làm,” hiện nay ông nói như thế. “Tôi cảm thấy có sự gắn bó với những con người này”.

Sự gắn bó không thể hiện một cách rõ ràng ngay trong cuộc gặp đầu tiên của họ. Khoảng một tuần sau khi nhận được cú điện thoại vừa nói, Tennant cùng với vợ lái xe từ Parkersburg đến trụ sở của Taft ở trung tâm thành phố Cincinnati. Họ lôi những hộp các-tông có chứa các băng video, hình ảnh và tài liệu vào khu vực tiếp khách của công ty trên tầng 18, và ngồi vào ghế bên dưới một bức chân dung sơn dầu của một trong những người sáng lập ra công ty Taft. Tennant – mặc quần jean, cao mét tám, vạm vỡ áo sơ mi kẻ sọc, đội mũ vận động viên bóng chày – khác hẳn hình ảnh thường thấy của công ty Taft. “Ông không tới văn phòng của chúng tôi với điệu bộ của một phó chủ tịch ngân hàng”, Thomas Terp, đối tác, cũng là cấp trên của Bilott nói như thế.

Terp cùng với Bilott tham gia cuộc họp. Wilbur Tennant giải thích rằng ông và bốn anh chị em quản lý trang trại nuôi gia súc ngay từ khi bố ông bỏ đi, khi còn rất nhỏ. Lúc đó họ có bảy con bò. Họ đã liên tục mua đất và gia súc trong suốt hàng chục năm ròng, cho đến khi có 200 con bò và hơn 600 acre (acre – 0,4 hecta – ND) đất trong khu vực đồi núi. Tài sản của họ đáng lẽ sẽ còn nếu hồi đầu những năm 1980, người anh trai, tên Jim và vợ của Jim là Della, không bán 66 acre cho công ty DuPont. Công ty muốn sử dụng khu đất đó làm bãi chôn lấp chất thải từ nhà máy gọi là Washington Works ở gần Parkersburg. Jim đang làm công nhân ở nhà máy này. Jim và Della không muốn bán, nhưng Jim bị bệnh trong nhiều năm liền, các bác sĩ không biết là bệnh gì và lúc đó họ đang cần tiền.

DuPont đăng kí khu đất với tên gọi là Bãi rác Khô suối Run (Dry Run Landfill). Run là tên con suối chảy qua khu vực đó. Con suối này chảy xuống cánh đồng cỏ của Tennant. Chẳng bao lâu sau khi bán, Wilbur nói với Bilott, gia súc bắt đầu bị điên. Trước đây, đối với Tennat, chúng chẳng khác gì những con vật nuôi trong nhà. Vừa nhìn thấy Tennant là chúng đã bước tới, chúng đứng sát vào người ông và để cho người tự do vắt sữa. Nay không còn thế nữa. Bây giờ, thấy người là chúng nghênh đầu lên.

Wilbur đưa một cuốn băng vào máy videocassette. Các cảnh quay, hình ảnh trên máy quay phim, đầy sạn. Hình ảnh nhảy và lặp đi lặp lại. Âm thanh to nhỏ thất thường. Chẳng khác gì một bộ phim kinh dị. Máy quay chĩa ngang qua con suối. Hình ảnh khu rừng xung quanh, cây Tro trắng rụng lá và dòng nước nông, lấp lánh sóng, trước khi dừng lại trên một cái gì đó trông giống như đống tuyết cạnh khúc quanh của con suối. Máy ảnh phóng to, cho thấy một đống bọt xà phòng.

“Tôi đã đưa hai con hươu và hai con bò chết ra khỏi con suối này”, Tennant nói khá to. “Máu rỉ ra từ mũi và miệng. … Họ tìm cách che giấu mấy chuyện này. Nhưng không giấu được, bởi vì tôi đưa ra cho mọi người cùng thấy”.

Đoạn video cho thấy một đường ống lớn nối vào con suối, xả nước màu xanh lá cây, bong bóng nổi trên bề mặt. “Đây là những thứ mà họ nghĩ rằng bò của ông ta sẽ uống ngay trên mảnh đất của mình”, Wilbur nói. “Đây là lúc mà một người nào đó trong một cơ quan nào đó của nhà nước phải bắt tay vào giải quyết”.

Đoạn băng còn có một con bò gầy, màu đỏ đứng giữ đống cỏ khô. Có những chỗ không có lông và lưng của nó gồ lên – đấy là do thận bị bệnh, Wilbur đoán như thế. Sau đó là cảnh một con bê đen nằm chết trên đám tuyết, mắt nó bóng loáng, một mầu xanh hóa học. “Tôi đã mất một trăm năm mươi ba con, cả bò lẫn bê ở trang trại này”, Wilbur nói trong đoạn băng tiếp theo như thế. “Tất cả các bác sĩ thú y ở Parkersburg mà tôi đã gọi điện đều hoặc là không hồi âm hoặc là không muốn dính líu vào. Vì họ không muốn dính líu, cho nên tôi sẽ tự mình mổ xẻ vấn đề này. … Tôi sẽ bắt đầu từ cái đầu này”.

Đoạn băng tiếp theo cho thấy một cái đầu bê bị xẻ làm đôi. Tiếp theo là những chiếc răng bê màu đen (“Họ bảo đấy là do nồng độ fluoride trong nước mà bò uống quá cao”), rồi đến gan, tim, dạ dày, thận và túi mật. Tất cả các bộ phận này đều được cắt ra và Wilbur nói rằng chúng có màu bất bình thường – một số có màu tối, một số có màu xanh lá cây – cấu tạo cũng không bình thường. “Tôi thậm chí không thích vẻ ngoài của chúng”, ông ta nói. “Không giống như những thứ tôi từng thấy trước đây”.

Bilott xem video và các bức ảnh trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Ông nhìn thấy đuôi những con bò cái nổi lên thành từng cục, móng méo mó, những vết thương màu đỏ khổng lồ trên da thịt chúng, mắt trũng lại; bò bị tiêu chảy liên tục, mồm đầy nhớt dãi màu trắng như kem đánh răng, đi đứng lảo đảo như người say rượu. Tennant luôn luôn phóng to mắt những con bò. “Con bò này phải chịu rất nhiều đau khổ”, ông nói, trong khi con mắt nhấp nháy choán đầy màn hình.

“Không ổn”, Bilott bảo ông. “Có chuyện gì đó không hay đang diễn ra ở đây”.

Vị trí tiểu bang West Virginia trên bản đồ Mỹ. Ảnh: 50states.com.

Ngay lập tức, Bilott quyết định giải quyết vụ việc của Tennant. Đó là, ông nhắc lại, “công việc phải làm”. Bilott có thể đã có vẻ ngoài một luật sư của công ty – ăn nói nhỏ nhẹ, nước da sáng, quần áo bảnh bao – nhưng công việc không tự nhiên tìm đến với ông.

Ông không phải là người có lý lịch điển hình của một luật sư trong hãng Taft. Ông không học đại học hay trường luật danh tiếng. Cha ông là trung tá Không quân, và phần lớn tuổi thơ của Bilott là những lần di chuyển giữa các căn cứ không quân gần Albany; Flint, Michigan; Newport Beach, California; và Wiesbaden, Tây Đức. Bilott từng theo học ở tám trường học khác nhau trước khi tốt nghiệp Fairborn High, gần căn cứ không quân Wright-Patterson ở bang Ohio.

Khi đang học lớp cuối cấp; ông được mời vào học tại trường giáo dục đại cương (liberal-arts school) nhỏ tí ở Sarasota, tên là New College Florida. Trường này phân người học thành hai loại: đạt/không đạt và cho phép người học tự thiết kế chương trình học tập của mình. Nhiều bạn bè của ông là những người có lý tưởng, tiến bộ – ngoài lề về mặt ý thức hệ trong giai đoạn cầm quyền của Reagan. Ông đã gặp riêng các vị giáo sư và chuyển sang đánh giá cao tư duy mang tính phê phán.

“Tôi đã biết nghi ngờ mọi thứ mình đọc”, ông nói. “Đừng tin ngay hình thức bên ngoài. Đừng quan tâm tới những điều người khác nói. Tôi thích triết lý đó”. Bilott nghiên cứu chính trị học và viết luận án tốt nghiệp về những thăng trầm của Dayton. Ông hy vọng sẽ trở thành người quản lý thành phố.

Nhưng cha ông, về cuối đời đã vào học trường luật, động viên Bilott cũng làm như thế. Trước sự ngạc nhiên của giáo sư, ông quyết định học luật ở bang Ohio, môn ông thích nhất là luật môi trường. “Dường như môn này sẽ có tác động đối với thế giới thực”, ông nói. “Đây là lĩnh vực có thể tạo ra sự khác biệt”. Sau khi tốt nghiệp, nghe nói Taft mời ông làm cho công ty, các thày giáo và bạn bè của ông ở New College vô cùng kinh ngạc. Họ không hiểu làm thế sao mà ông có thể làm cho một công ty. Nhưng Bilott không nghĩ như thế. Nói một cách trung thực, ông chưa từng thực sự nghĩ về đạo đức của cách lựa chọn đó. “Gia đình tôi nói rằng công ty lớn là nơi có những cơ hội lớn nhất”, ông nói. “Tôi không quen ai từng làm việc cho bất cứ công ty nào, không ai nói nó là thế nào. Tôi chỉ cố gắng để có việc làm tốt nhất có thể. Tôi chẳng biết nó gồm những gì”.

Ở công ty Taft, ông xin tham gia nhóm môi trường do Thomas Terp lãnh đạo. Mười năm trước, Quốc hội đã thông qua đạo luật gọi là Superfund, nhằm tài trợ cho việc dọn dẹp ngay lập tức của các bãi rác nguy hiểm. Superfund là đạo luật có lợi cho các công ty như Taft. Đạo luật này tạo ra một lĩnh vực nhỏ trong luật về môi trường, nó đòi hỏi phải hiểu biết sâu sắc về những quy định mới để có thể hướng dẫn các cuộc đàm phán giữa các cơ quan của thành phố và vô số các đối tác tư nhân. Đội của Terp ở Taft là những người đi đầu trong lĩnh vực này.

Bilott có nhiệm vụ xác định công ty nào thải ra những chất thải nguy hiểm nào, thải bao nhiêu và ở đâu. Ông ghi lời chứng của nhân viên các nhà máy, ông đọc kỹ những bản công bố công khai và sắp xếp được một lượng lớn dữ liệu lịch sử. Ông trở thành một chuyên gia trong tổ chức mang tên Cơ quan Bảo vệ Môi trường, Luật về Nước uống An Toàn, Luật về Không khí Sạch, Luật về Kiểm soát các Chất độc. Ông nắm vững tính chất hóa học của các chất gây ô nhiễm, mặc dù hóa học là môn tệ nhất thời còn đi học. “Tôi biết rõ những công ty này làm việc như thế nào, pháp luật hoạt động như thế nào và làm sao bảo vệ được những yêu cầu này”, ông nói. Ông đã trở thành người trong cuộc tuyệt vời.

Con đường dẫn vào nông trại của gia đình Tennant. Ảnh: Bryan Schutmaat/The New York Times.

Bilott rất tự hào về những việc mình đã làm. Công việc của ông, theo ông hiểu, là giúp khách hàng thực hiện theo những quy định mới. Nhiều khách hàng của ông, trong đó có những công ty như Thiokol và Bee Chemical, đã xử lý rác thải nguy hại từ lâu, trước khi có những quy định chặt chẽ như thế. Ông làm việc nhiều giờ và biết rất ít người ở Cincinnati.

Một đồng nghiệp trong nhóm môi trường của công ty Taft nhận xét rằng ông dành ít thời gian cho đời sống xã hội, người này giới thiệu ông với một người bạn thời thơ ấu tên là Sarah Barlage. Bà cũng là luật sư, làm cho một công ty khác trong thành phố Cincinnati, với nhiệm vụ là bảo vệ công ty trước những yêu cầu đòi bồi thường của công nhân. Bilott cùng hai người bạn đi ăn trưa. Sarah không nhớ ông nói gì. “Ấn tượng đầu tiên của tôi là ông không như những anh chàng khác”, bà nói. “Tôi hay nói. Anh ấy ít nói hơn nhiều. Chúng tôi bổ sung cho nhau”.

Họ kết hôn năm 1996. Hai năm sau, họ có cậu con trai đầu tiên, sau đó còn hai người con trai nữa. Ông cảm thấy lương ở công ty Taft đủ nuôi cả gia đình và cho Barlage nghỉ việc để dành toàn bộ thời gian nuôi dạy con. Terp, thủ trưởng của ông, nhắc tới ông như “một luật sư nổi bật: thông minh đến mức khó tin, tràn đầy năng lượng, kiên trì và rất, rất kỹ lưỡng”. Ông là một luật sư gương mẫu của Taft. Rồi, Wilbur Tennant tới.

Vụ của Tennant đưa Taft vào địa vị rất bất bình thường. Công ty luật này thường làm đại diện cho các tập đoàn hóa chất, chứ không kiện họ. Triển vọng của việc giải quyết vụ DuPont “đã khiến chúng ta tạm dừng”, Terp thừa nhận. “Nhưng đấy không phải là quyết định vô cùng khó khăn đối với chúng tôi. Tôi tin tưởng vững chắc rằng đứng về phía nguyên đơn làm cho chúng tôi trở thành các luật sư giỏi giang hơn”.

Bilott nhờ một luật sư ở West Virginia tên là Larry Winter giúp đỡ trong vụ Tennant. Winter là thành viên hợp danh ở công ty Spilman, Thomas & Battle suốt nhiều năm – đấy một trong những công ty luật đại diện cho DuPont ở West Virginia – mặc dù Winter đã rời Spilman để bắt đầu chuyên xử lý những vụ thương tích cá nhân. Ông lấy làm ngạc nhiên khi thấy Bilott sẽ kiện DuPont, trong khi vẫn làm cho Taft.

“Việc ông ta giải quyết vụ Tennant”, Winter nói, “dù đấy là loại công việc mà Taft từng làm, thì tôi cũng cho là không thể tưởng tượng nổi”.

Về phần mình, Bilott không muốn nói về động cơ khi tham gia vụ đó. Ý tưởng gần gũi nhất mà ông thảo luận kỹ là sau khi được hỏi liệu, sau khi nói “tạo ra sự khác biệt”, ông có lo ngại về con đường sự nghiệp mà mình đã chọn hay không.

“Lý do vì sao tôi lại muốn giúp đỡ Tennant”, ông nói sau một lúc đắn đo. “Đây là một cơ hội tuyệt vời nhằm sử dụng kiến thức của tôi cho những người thực sự cần nó”.

Mùa hè năm 1999, Bilott đệ đơn kiện DuPont lên tòa án liên bang ở Southern District, bang West Virginia. Đáp lại, luật sư trong công ty DuPont, Bernard Reilly, thông báo với ông rằng DuPont và E.P.A. (Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ) đã tiến hành nghiên cứu khu đất đó. Công tác nghiên cứu được tiến hành bởi ba bác sĩ thú y do DuPont lựa chọn và ba bác sĩ thú y do E.P.A lựa chọn. Báo cáo của họ không nói rằng DuPont phải chịu trách nhiệm về sức khỏe của gia súc. Không những thế, thủ phạm là do thiếu chăm sóc: “Thiếu dinh dưỡng, chăm sóc thú y không đầy đủ và có nhiều ruồi”. Nói cách khác, Tennant không biết cách nuôi gia súc; bò bị chết, đó là lỗi của họ.

Điều này gây khó khăn cho gia đình Tennant, những người bắt đầu phải gánh chịu những hậu quả của của người sử dụng lao động chính ở Parkersburg. Những người bạn lâu năm của gia đình Tennant lờ đi, như thể không nhìn thấy họ đi trên đường phố Parkersburg và ra khỏi nhà hàng khi họ bước vào. “Tôi không được phép nói chuyện với ông”, họ nói, khi gặp nhau. Gia đình Tennant phải chuyển nhà thờ tới bốn lần.

Hầu như ngày nào Wilbur cũng gọi điện tới văn phòng, nhưng Bilott cũng chẳng có nhiều nhuyện để nói với ông ta. Bilot đã làm cho gia đình Tennant tất cả những việc mà ông có thể làm cho bất kỳ khách hàng nào khác của doanh nghiệp – xin giấy phép, nghiên cứu việc làm đất và yêu cầu DuPont cung cấp tất cả các tài liệu liên quan đến Dry Run Landfill – nhưng ông không thể tìm được bằng chứng giải thích những hiện tượng đang xảy ra với đàn gia súc. “Chúng tôi cảm thấy nản”, Bilott nói. “Tôi không thể đổ lỗi cho gia đình Tennant vì họ làm mình tức giận”.

Trước khi phiên tòa diễn ra, Bilott tình cờ thấy bức thư của DuPont gửi cho E.P.A., trong có có nhắc tới một chất ở bãi rác với cái tên khó hiểu: “PFOA”. Suốt nhiều năm làm việc với các công ty hóa chất, Bilott chưa bao giờ nghe nói tới PFOA. Nó chưa từng xuất hiện trên bất cứ danh mục các chất nào trong các quy định, trong thư viện nội bộ của Taft cũng không có. Nhưng, chuyên gia hóa chất mà ông thuê cho vụ này nhớ một cách mù mờ rằng một bài báo trên một tờ tạp chí thương mại có nói tới một hợp chất có âm thanh gần giống như thế: PFOS, đấy là chất giống như sà phòng do tập đoàn công nghệ 3M sử dụng để điều chế hợp chất chống vết bẩn (Scotchgard).

Bilott lục tung đống hồ sơ của mình ra để tìm những tài liệu khác liên quan tới PFOA, mà ông phát hiện ra rằng đây là viết tắt của chất axit có tên là acid perfluorooctanoic. Nhưng không tìm thấy gì. Ông đề nghị DuPont chia sẻ tất cả các tài liệu liên quan tới chất axit này; nhưng DuPont từ chối. Mùa thu năm 2000, Bilott đòi tòa án ra lệnh buộc họ phải chia sẻ. Mặc cho sự phản đối của DuPont, lệnh đã được ban hành. Hàng chục thùng chứa hàng ngàn tài liệu chẳng theo trật tự nào bắt đầu được chở tới trụ sở chính của Taft: thư từ trao đổi nội bộ, báo cáo về sức khỏe và y tế, và các công trình nghiên cứu bí mật do các nhà khoa học của DuPont tiến hành. Tất cả hơn 110.000 trang, một số đã được lưu trữ hơn nửa thế kỷ.

Bilott phải lăn lộn trên sàn văn phòng suốt mấy tháng trời để nghiên cứu tài liệu và sắp xếp chúng theo thứ tự thời gian. Ông không trả lời điện thoại gọi tới văn phòng. Khi có người gọi cho thư ký riêng của ông thì bà này giải thích rằng ông đang ở trong văn phòng nhưng không thể đi tới điện thoại vì xung quanh quá nhiều hộp giấy, không đi ra được.

“Tôi bắt đầu hiểu được câu chuyện”, Bilott nói. “Tôi có thể là người đầu tiên thực sự xem tất cả những tài liệu này. Những hiện tượng đang xảy ra hiện ra ngày càng rõ ràng: Họ đã biết từ lâu rằng chất này là không tốt”.

Bilott được cho đã nói bớt đi. Câu chuyện mà Bilott bắt đầu nhìn thấy, khi ngồi xếp bằng trên sàn văn phòng, làm người ta sững sờ vì quy mô, tính chất đặc thù và mức độ trơ tráo của nó. “Tôi đã bị sốc”, ông nói. Đấy là cách nói nhẹ nhàng khác. Bilott không thể tin vào quy mô của những tài liệu liên quan tới trách nhiệm mà DuPont đã gửi cho ông. Dường như công ty này không nhận thức được là họ đã giao cho ông cái gì. “Đây là một trong những cái mà bạn không thể tin rằng bạn đang đọc nó”, ông nói. “Được viết trên giấy trắng mực đen hẳn hoi. Đấy là những thứ mà bạn luôn luôn nghe nói là đang xảy ra, nhưng bạn không bao giờ nghĩ rằng bạn sẽ nhìn thấy trên giấy trắng mực đen”.

Câu chuyện bắt đầu năm 1951, khi DuPont bắt đầu mua PFOA (mà công ty gọi là C8) từ công ty 3M để sản xuất Teflon. 3M đã phát minh ra PFOA bốn năm trước đó; nó được sử dụng để giữ cho những lớp phủ, tương tự như Teflon, khỏi bị vón cục trong quá trình sản xuất. Mặc dù PFOA không bị chính phủ coi là chất độc hại, nhưng 3M đã gửi cho DuPont đề xuất về cách thức loại bỏ nó. Phải đốt hay gửi tới các cơ sở xử lý chất thải hóa học. Hướng dẫn của chính DuPont cũng nói rằng không được đổ lên mặt nước hay cống rãnh.

Nhưng trong hàng chục năm sau đó, DuPont đã bơm hàng trăm ngàn pound (1 pound =450 gam – ND) bột PFOA vào đường ống cống của Parkersburg, dẫn ra sông Ohio. Công ty này còn đổ 7.100 tấn bùn PFOA vào “ao xử lý”: đấy là những cái ao không có nắp đậy, không có vải lót chống thấm bên dưới, ngay trong khu nhà máy Washington Works, hóa chất có thể ngấm thẳng xuống đất. PFOA có thể thấm vào mạch nước ngầm trong khu vực, tức là nơi cung cấp nước uống cho các cộng đồng ở Parkersburg, Vienna, Little Hocking và Lubeck – tất cả là hơn 100.000 người.

Từ các tài liệu của 3M và DuPont, Bilott biết rằng hai công này đã tiến hành các công trình nghiên cứu y tế bí mật về PFOA trong suốt hơn bốn chục năm. Năm 1961, các nhà nghiên cứu của DuPont phát hiện ra rằng hóa chất này có thể làm cho gan ở chuột và thỏ phình lên. Một năm sau đó, họ có kết quả tương tự khi nghiên cứu loài chó. Cấu trúc hóa học đặc biệt của PFOA đã làm cho nó có khả năng không bị phân hủy cực kỳ cao. Nó còn liên kết với protein của huyết tương trong máu, đi qua tất cả cơ quan trong cơ thể.

Trong những năm 1970, DuPont đã phát hiện ra rằng máu của công nhân trong các nhà nhà máy Washington Work có nồng độ PFPA khá cao. Lúc đó họ không cho E.P.A. biết. Năm 1981, 3M – vẫn tiếp tục là nhà cung cấp PFOA cho DuPont và các công ty khác – phát hiện ra rằng ăn phải chất này là nguyên nhân của những dị tật bẩm sinh ở loài chuột. Sau khi 3M chia sẻ thông tin này, DuPont đã tiến hành kiểm tra con của những người lao động mang thai trong xưởng sản xuất Teflon của họ. Trong bảy đứa trẻ được sinh ra, có hai đứa bị dị tật ở mắt. DuPont không công bố thông tin này.

Năm 1984, DuPont biết rằng bụi từ ống khói nhà máy vượt ra khỏi khu vực của nhà máy và, đáng lo ngại là PFOA hiện diện trong nước uống của địa phương. DuPont không chịu tiết lộ những thông tin này. Năm 1991, các nhà khoa học của DuPont xác định được giới hạn an toàn nội bộ đối của nồng độ PFOA trong nước uống: một phần tỷ. Cùng năm đó, DuPont phát hiện ra rằng nước ở một khu vực trong vùng này có nồng độ PFOA cao gấp ba lần giới hạn cho phép. Mặc dù đã có cuộc tranh luận trong nội bộ, công ty này không chịu công bố thông tin này.

(Trong một tuyên bố, DuPont nói rằng họ đã thông tin về vấn đề sức khỏe do PFOA gây ra cho E.P.A. trong suốt hàng chục năm đó. Khi được hỏi về bằng chứng, công ty này đã chuyển tiếp hai lá thư gửi cho các cơ quan của chính quyền West Virginia năm 1982 và 1992, cả hai đều trích dẫn các nghiên cứu nội bộ liên quan tới phơi nhiễm PFOA và vấn đề sức khỏe của con người.)

Trong những năm 1990, Bilott phát hiện ra là, DuPont hiểu rằng PFOA gây ra ung thư tinh hoàn, khối u ở tuyến tụy và gan ở động vật trong phòng thí nghiệm. Một công trình nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho rằng DNA có thể bị phá hủy khi tiếp xúc với PFOA, và một công nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa việc tiếp xúc của công nhân với PFOA với bệnh ung thư tiền liệt tuyến. Cuối cùng, DuPont đã vội vã phát triển chất thay thế cho PFOA.

Một bản ghi nhớ nội bộ năm 1993 thông báo rằng “lần đầu tiên, chúng ta có một chất thay thế khả thi”, dường như ít độc hại hơn và ở lại trong cơ thể trong giai đoạn ngắn hơn hẳn. Các cuộc thảo luận đã được tổ chức tại trụ sở công ty của DuPont nhằm thảo luận về việc chuyển sang hợp chất mới. DuPont quyết định không chấp nhận. Rủi ro quá lớn: Các sản phẩm được sản xuất với PFOA là phần quan trọng trong kinh doanh của DuPont, lợi nhuận hàng năm là 1 tỷ USD.

Nhưng phát hiện cực kỳ quan trọng đối với vụ kiện của Tennant là: Cuối những năm 1980, khi DuPont ngày càng lo ngại về các tác hại của chất thải PFOA đối với sức khỏe, họ quyết định là cần tìm bãi để đổ bùn độc hại chứ không đổ trong khu vực công ty nữa. Thật may là họ vừa mua được 66 acre của một nhân viên cấp thấp đang làm việc ở Washington Works, khu đất này rất phù hợp.

Đến năm 1990, DuPont đã đổ 7.100 tấn PFOA bùn vào Dry Run Landfill. Các nhà khoa học của DuPont hiểu rằng nước từ bãi rác sẽ chảy vào khu đất còn lại của gia đình Tennant và họ đã tiến hành kiểm tra rãnh nước của bãi thải. Nồng độ FPOA ở đây cao một cách khác thường. Lúc đó DuPont không nói cho gia đính Tennant biết, họ cũng không tiết lộ sự kiện trong báo cáo về gia súc của Tennant mà họ giao cho các bác sĩ thú y nghiên cứu sau đó khoảng một chục năm – tức là báo cáo nói rằng do chăm sóc kém mà bò của gia đình này đã chết. Bilott đã nắm được những thứ mà ông đang cần.

Tháng 8 năm 2000, Bilott gọi điện cho luật sư của DuPont, Bernard Reilly, và giải thích rằng ông biết những việc đang diễn ra. Đó là một cuộc thảo luận ngắn.

Gia đình Tennant đã ổn định. Công ty của họ sẽ nhận được khoản tiền đền bù. Toàn bộ công việc có thể đã kết thúc ngay tại đây. Nhưng Bilott không chịu.

“Tôi rất áy náy”, ông nói.

DuPont khác những tập đoàn mà ông là người đại diện ở công ty Taft trong các vụ kiện về Superfund. “Đây là kịch bản hoàn toàn khác nhau. Trong hàng chục năm qua, DuPont đã tìm cách che giấu hành động của họ. Họ biết rằng chất này là có hại, thế mà vẫn đưa nó vào dòng nước. Đây là những việc rất không tốt”. Ông đã nhìn thấy việc nước uống nhiễm độc PFOA đã gây ra cho gia súc những tác động xấu như thế nào. Còn hàng chục ngàn người dân trong những khu vực xung quanh Parkersburg hàng ngày vẫn uống từ vòi nước thì sao? Bên trong đầu của họ trông như thế nào? Các cơ quan nội tạng của họ có màu xanh hay không?

Bilott dành mấy tháng liền cho việc soạn thảo đơn kiện công khai chống lại DuPont. Đơn kiện dài 972 trang, với 136 hiện vật. Các đồng nghiệp của ông gọi nó là “Bức thư nổi tiếng của Rob”. “Chúng tôi khẳng định rằng các hóa chất và các chất gây ô nhiễm của DuPont được thải vào môi trường tại Dry Run Landfill và những khu vực lân cận các nhà máy của có thể gây ra mối đe dọa trong thời gian trước mắt và đáng kể đối với sức khỏe, môi trường”, Bilott viết. Ông yêu cầu phải hành động ngay lập tức nhằm điều chỉnh chất PFOA và cung cấp nước sạch cho dân chúng sống gần nhà máy. Ngày 6 tháng 3 năm 2001, Bilott gửi thư cho người đứng đầu tất cả các cơ quan quản lý có liên quan, trong đó có Christie Whitman, giám đốc E.P.A., và Tổng chưởng lý Hoa Kỳ, John Ashcroft.

DuPont phản ứng ngay lập tức, họ yêu cầu ngăn chặn Bilott, không để ông cung cấp cho chính quyền những thông tin mà ông phát hiện được trong vụ Tennant. Một tòa án liên bang bác bỏ yêu cầu này. Bilott gửi toàn bộ hồ sơ vụ án cho E.P.A.

“DuPont lúng túng khi họ nhận ra rằng ông ta đang kiện họ”, Ned McWilliams, một luật sư trẻ, sau này đã tham nhóm của Bilott, nói. “Vì việc công ty tìm kiếm lệnh nhằm bịt miệng không để người ta nói chuyện với E.P.A. là biện pháp đặc biệt. Bạn có thể thấy biện pháp đó xấu xa đến mức nào. Chắc chắn họ phải biết rằng cơ hội chiến thắng là rất nhỏ. Nhưng họ quá sợ nên sẵn sàng liều”.

Jim Tennant và vợ bán cho Dupont 66 mẫu (acre) đất để công ty này làm bãi chôn chất thải. Ảnh: Bryan Schutmaat/The New York Times.

“Bức thư của Rob kéo tung bức màn trên một sân khấu hoàn toàn mới”, Harry Deitzler, luật sư của nguyên đơn ở West Virginia, cùng làm việc với Bilott, nói. “Trước khi xuất hiện lá thư đó, tập đoàn có thể dựa vào nhận thức sai lầm nào đó của công chúng rằng nếu hóa chất là nguy hiểm, thì nhà nước đã có quy định rồi”. Theo Đạo luật Kiểm soát Chất độc 1976, E.P.A. chỉ có thể kiểm tra hóa chất khi có bằng chứng về tác hại của nó. Cách viết như thế, nói chung, đã tạo điều kiện cho các công ty hóa chất tự điều chỉnh, đấy cũng là lý do mà E.P.A. chỉ giới hạn trong năm hóa chất, trong số hàng chục ngàn hóa chất trên thị trường, trong suốt 40 năm qua.

Lời cáo buộc chống lại DuPont ngay bên dưới nhan đề bức thư của một trong những công ty bào chữa uy tín nhất đất nước là lời kết tội đanh thép nhất. “Bạn có thể tưởng tượng về những suy nghĩ của một số các công ty mà Taft làm người đại diện – ví dụ công ty Dow Chemical – có thể có đối với người luật sư của Taft tham gia kiện cáo DuPont”, Larry Winter nói. “Công ty có thể sẽ bị thiệt hại về mặt tài chính”. Khi tôi hỏi Thomas Terp về phản ứng của Taft đối với bức thư nổi tiếng kia, ông trả lời, theo tôi nhớ là không được thuyết phục lắm: “Các thành viên hợp danh của chúng tôi, rất tự hào về công việc mà ông ta đã làm được”.

Nhưng Bilott lo rằng các tập đoàn đang làm ăn với Taft có thể nhìn sự vật theo cách khác. “Tôi không phải là người ngu, những người xung quanh tôi cũng không phải là người ngu”, ông nói. “Bạn không thể bỏ qua hiện thực về kinh tế của những biện pháp quản lý doanh nghiệp và cách suy nghĩ của khách hàng. Tôi hiểu rằng có một số người trả lời ‘Anh đang làm cái quái gì thế?’”

Bốn năm sau, năm 2005, bức thư làm cho DuPont phải trả cho E. P. A 16,500 triệu USD vì E. P. A. cáo buộc công ty này che giấu kiến thức về độc tính và sự hiện diện của PFOA trong môi trường, tức là vi phạm Luật Kiểm soát các Chất độc. (DuPont không bị buộc phải thừa nhận trách nhiệm). Lúc đó, đây là khoản phạt hành chính lớn nhất trong toàn bộ lịch sử tồn tại của E.P.A. Khoản tiền phạt này chiếm chưa tới 2% lợi nhuận mà PFOA mang lại cho DuPont trong năm đó.

Bilott không bao giờ còn làm đại diện cho các tập đoàn nữa.

Bước tiếp theo là thay mặt cho những người từng uống nước nhiễm PFOA nộp đơn kiện tập thể chống lại DuPont. Về mọi mặt, Bilott là người có vị trí lý tưởng trong việc khởi kiện. Ông nắm được lịch sử của PFOA chẳng khác gì những người bên trong công ty DuPont. Ông có kinh nghiệm về kỹ thuật và quản lý, như ông đã từng chứng minh trong vụ của Tennant. Vô lý nhất là công ty của ông: Không ai nhớ được bất kỳ trường hợp nào, trong đó luật sư của Taft, đứng ra kiện cáo.

Thay mặt cho một vài người nuôi gia súc ở West Virginia theo đuổi vụ kiện nhạy cảm và thậm chí viết một bức thư ngỏ gửi E.P.A là một chuyện. Còn theo đuổi vụ kiện tập thể chống lại một trong những tập đoàn hóa chất lớn nhất thế giới là chuyện khác. Nó có thể trở thành tiền lệ cho việc kiện tụng các tập đoàn về những chất chưa được quy định và đe dọa ngay chính nền tảng của Taft.

Theo báo cáo của các đồng nghiệp cùng là luật sư bên nguyên của Bilott thì Bernard Reilly, luật sư của hãng DuPont đã nói với Terp như thế; họ nói rằng Reilly đã gọi điện, yêu cầu rút Bilott ra khỏi vụ kiện. (Terp khẳng định rằng Reilly có gọi điện cho ông, nhưng sẽ không tiết lộ nội dung cuộc gọi. Bilott và Reilly không chịu nói về chuyện đó, với lý do là kiện tụng vẫn còn tiếp tục). Với những điều Bilott viết trong bức thư nổi tiếng của ông, Taft đứng ra ủng hộ vị luật sư của mình.

Nguyên đơn đứng đầu nhanh chóng xuất hiện. Đấy là Joseph Kiger, thày giáo dạy trường ban đêm ở Parkersburg, đã gọi điện cho Bilott nhờ giúp đỡ. Trước đây khoảng chín tháng, ông đã nhận được một bức thư ngắn khác thường từ nhà máy nước Lubeck, trùng ngày lễ Halloween, đính kèm với hóa đơn tiền nước hàng tháng.

Bức thư giải thích rằng một hóa chất không được kiểm soát tên là PFOA đã được phát hiện trong nước uống với “nồng độ thấp”, nhưng không đe dọa tới sức khỏe. Kiger gạch dưới tuyên bố mà ông thấy là cực kì khó hiểu: “DuPont thông báo rằng công ty có dữ liệu về độc tính và dịch tễ học củng cố niềm tin rằng những hướng dẫn do DuPont đưa ra có tính chất phòng ngừa đối với sức khỏe của con người”. Thuật ngữ “củng cố niềm tin” cũng như “phòng ngừa đối với sức khỏe của con người” nghe có vẻ kì quặc, chứ chưa nói tới lời khẳng định nói rằng dữ liệu của chính DuPont củng cố niềm tin của họ vào hướng dẫn của chính họ.

Tuy nhiên, Kiger có thể quên là vợ ông, bà Darlene, chưa dành nhiều thời gian trong tuổi trưởng thành để suy nghĩ về PFOA. Người chồng đầu tiên của Darlene là một nhà hóa học trong phòng thí nghiệm về PFOA của DuPont. (Darlene đề nghị không đưa tên ông này để ông ta không bị dính líu vào nền chính trị của địa phương xung quanh vụ kiện này). Darlene nói: “Khi làm việc cho công ty DuPont ở thị trấn này, bạn có thể có tất cả mọi thứ mình muốn”. DuPont trả tiền học cho ông ta, đảm bảo tiền thế chấp và trả mức lương khá hào phóng. DuPont thậm chí còn cho không PFOA, mà Darlene nói là đã sử dụng thay xà phòng trong máy rửa bát của gia đình và để rửa xe ô tô. Đôi khi, đi làm về là chồng bà bị ốm – sốt, buồn nôn, tiêu chảy, nôn mửa – đấy là những lần làm việc trong bể chứa PFOA. Ở Washington Works thường xảy ra hiện tượng như thế. Darlene bảo công nhân ở nhà máy này gọi đấy là “cúm Teflon”.

Năm 1976, sau khi Darlene sinh người con thứ hai, chồng bà nói rằng ông không được phép mang quần áo lao động về nhà nữa. DuPont, ông nói, phát hiện ra rằng PFOA gây ra một số vấn đề về sức khỏe cho phụ nữ và dị tật bẩm sinh ở trẻ em. Sáu năm sau, khi tròn 36 tuổi, Darlene nhớ lại chuyện này, đấy là lúc bà phải cắt bỏ tử cung và tám năm sau thì bà lại nhớ đến nó một lần nữa, đây là lần phẫu thuật thứ hai. Khi nhận được lá thư kỳ lạ của nhà máy nước, Darlene nói: “Tôi cứ nghĩ tới quần áo của anh ấy, nghĩ tới vụ cắt tử cung của tôi. Tôi tự hỏi, DuPont đã làm gì với nước uống của chúng ta?”

Joe gọi tới Phòng Tài nguyên của West Virginia (“Họ làm như tôi bị dịch hạch vậy”), gọi tới văn phòng ở Parkersburg của Cục Bảo vệ Môi trường bang (“không có gì phải lo lắng hết”), gọi tới nhà máy nước (“Tôi tắt đây”), gọi tới sở y tế địa phương (“nhảm nhí”), thậm chí gọi cho DuPont, trước khi một nhà khoa học của E.P.A. trong văn phòng khu vực nhận cuộc gọi của ông.

“Lạy Chúa tôi, Joe”, nhà khoa học này nói. “Nhà máy này làm gì với nước uống của các vị đấy?”. Ông ta đã gửi cho Kiger thông tin về vụ kiện của Tennant. Trên giấy tờ của tòa án, Kiger liên tục nhìn thấy cùng một cái tên: Robert Bilott, thuộc công ty Taft Stettinius & Hollister, ở Cincinnati.

Bilott tưởng sẽ thay mặt cho người dân dùng nước của một hoặc hai nhà máy nước gần Washington Works nhất tham gia vụ kiện. Nhưng mấy lần kiểm tra cho thấy rằng sáu nhà máy nước, cũng như hàng chục giếng khoan tư nhân, nhiễm PFOA với hàm lượng cao hơn tiêu chuẩn an toàn nội bộ của DuPont. Ở Little Hocking, nước chứa PFOA với nồng độ cao gấp bảy lần giới hạn cho phép. Tóm lại, 70.000 người đã uống nước nhiễm độc. Một số người đã uống nước nhiễm độc trong hàng chục năm.

Nhưng Bilott gặp phải một vấn đề pháp lý gây ra nhiều tranh cãi. PFOA không phải là chất được quy định về nồng độ trong các văn bản pháp quy. Nó không xuất hiện trên bất cứ danh sách các chất gây ô nhiễm liên bang hay tiểu bang nào. Làm sao Bilott có thể tuyên bố rằng 70.000 người đã bị nhiễm độc trong khi chính phủ không công nhận PFOA là chất độc – nếu PFOA, nói theo pháp luật, cũng chẳng khác gì nước? Năm 2001, thậm chí không thể chứng minh được rằng tiếp xúc với PFOA trong nước uống công cộng gây ra những vấn đề về sức khỏe. Có rất ít thông tin về ảnh hưởng của nó đối với đám đông dân chúng. Làm sao chứng minh được rằng dân chúng bị tổn thương bởi PFOA, khi phần lớn ảnh hưởng đối với sức khỏe là không rõ ràng?

Số liệu tốt nhất mà Bilott có để để đánh giá mức độ an toàn là giới hạn trong nội bộ của DuPont là một phần tỷ. Nhưng khi DuPont biết rằng Bilott đang chuẩn bị một vụ kiện mới, công ty này tuyên bố rằng sẽ đánh giá lại. Cũng như trong vụ Tennant, DuPont thành lập một nhóm gồm các nhà khoa học của công ty và các nhà khoa học từ Phòng Bảo vệ Môi trường West Virginia. Nhóm này đưa ra ngưỡng mới: 150 phần tỷ.

Bilott cho rằng đây là con số “có tính lừa mị”. Các nhà nghiên cứu chất độc mà ông thuê xác định giới hạn an toàn là 0,2 phần tỷ. Nhưng West Virginia thông qua tiêu chuẩn mới. Trong vòng hai năm, ba luật sư thường xuyên được DuPont sử dụng được Cục Bảo vệ Môi trường bang thuê vào vị trí lãnh đạo. Một người nắm trách nhiệm lãnh đạo toàn bộ cơ quan. “Cách thức thể hiện làm tôi ngạc nhiên”, Bilott nói. “Tôi nghĩ rằng các luật sư đồng nghiệp của tôi ở West Virginia, những người biết rõ hệ thống đó, không ngạc nhiên. Nhưng tôi ngạc nhiên”. Chính những luật sư của DuPont được giao nhiệm vụ đưa ra các giới hạn an toàn, Bilott nói, lại trở thành các nhà quản lý của chính phủ chịu trách nhiệm thực thi giới hạn đó.

Bilott nghĩ ra chiến lược pháp lý mới. Một năm trước, West Virginia đã trở thành một trong những bang đầu tiên công nhận cái gọi là, trong luật về tổn hại, đòi bồi thường về y tế. Nguyên đơn chỉ cần chứng minh rằng mình đã tiếp xúc với chất độc. Nếu nguyên đơn thắng, bị đơn cần phải tài trợ những cuộc kiểm tra y tế thường xuyên. Trong trường hợp này, nếu sau đó nguyên đơn bị bệnh, người đó có thể kiện hồi tố đối với thiệt hại. Vì lý do đó, tháng 8 năm 2001, Bilott đệ đơn kiện ở tòa án bang, mặc dù bốn trong sáu nhà máy nước bị ảnh hưởng nằm trên biên giới với bang Ohio.

Trong khi đó E.P.A., do kết quả nghiên cứu của Bilott, cũng bắt đầu tiến hành điều tra riêng của mình về độc tính của PFOA. Năm 2002, cơ quan này tung ra những phát hiện ban đầu của mình: PFOA có thể làm hại sức khỏe không chỉ đối với những người uống nước nhiễm độc, mà còn cho công chúng nói chung – ví dụ, với những người sử dụng chảo Teflon để nấu nướng. E.P.A. đặc biệt lo ngại khi biết rằng PFOA đã được phát hiện trong ngân hàng máu của Mỹ, vấn đề mà công ty 3M và DuPont đã biết ít nhất là từ năm 1976.

Năm 2003, nồng độ PFOA trong máu của một người trưởng thành ở Mỹ là bốn đến năm phần tỷ. Năm 2000, công ty 3M đã ngừng sản xuất PFOA. DuPont, đáng lẽ phải sử dụng hợp chất thay thế thì lại xây dựng một nhà máy mới ở Fayetteville, N.C., để sản xuất PFOA cho riêng mình.

Cơ sở hoá chất của Dupont, gần thị trấn Parkersburg, bang West Virginia, nguồn gây ô nhiễm dẫn đến vụ kiện tập thể chống lại tập đoàn này. Ảnh: Bryan Schutmaat/The New York Times.

Chiến lược của Bilott dường như đã có tác dụng. Tháng 9 năm 2004, DuPont quyết định giải quyết vụ kiện tập thể này. Công ty này đồng ý lắp đặt máy lọc trong sáu nhà máy nước bị ảnh hưởng nếu các nhà máy này muốn và trả khoản tiền mặt trị giá 70 triệu USD. Công ty này cũng sẽ tài trợ một công trình nghiên cứu khoa học nhằm xác định xem liệu có “liên kết tiềm tàng” nào hay không – một thuật ngữ tế nhị nhằm tránh bất kỳ tuyên bố có tính nhân quả nào – giữa PFOA và bất kỳ bệnh tật nào đó. Nếu có những mối liên kết như thế thì DuPont sẽ trả tiền cho việc theo dõi thường xuyên về y tế cho nhóm người bị ảnh hưởng. Cho đến khi các nghiên cứu khoa học đưa ra kết quả, các thành viên của vụ kiện tập thể bị cấm nộp đơn kiện DuPont về chấn thương cá nhân.

Lúc đó, đây là đề xuất hợp lý, các luật sư có thể chấp nhận. “Trong tất cả những vụ kiện tập thể mà bạn đã từng đọc được”, Deitzler nói, “bạn nhận được 10 USD cho một bức thư (đọc mỗi bức thư được 10 USD – ND), các luật sư được trả tiền và vụ kiện chấm dứt. Đó là những việc mà chúng tôi được cho là phải làm”. Trong ba năm, Bilott tiếp tục làm việc mà không có kết quả gì, tốn khá nhiều tiền của công ty. Nhưng bây giờ, Taft gặp may bất ngờ: Bilott và đội ngũ luật sư nguyên đơn ở West Virginia nhận được 21,7 triệu USD án phí. “Tôi cho rằng họ đang suy nghĩ là anh chàng này làm tốt”, Deitzler nói. “Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu ông được tăng lương”.

Không chỉ Taft bù đắp được thiệt hại mà DuPont đã cung cấp nước sạch cho những cộng đồng có tên trong đơn kiện. Bilott có mọi lý do để tránh sang một bên.

Nhưng ông không tránh.

“Có cách biệt trong dữ liệu”, Bilott nói. Những công trình nghiên cứu y tế trong nội bộ công ty, dù chúng có ảnh hưởng tới công ty đến mức nào, cũng chỉ được áp dụng cho các nhân viên của nhà máy mà thôi. DuPont có thể khẳng định – và đã khẳng định – rằng, thậm chí nếu PFOA gây ra các vấn đề y tế, thì đấy chỉ là vì công nhân của nhà máy đã tiếp xúc với nồng độ cao gấp nhiều lần so với những người dân xung quanh uống bị nhiễm độc nước. Cách biệt này tạo điều kiện cho DuPont tuyên bố rằng họ không làm gì sai.

Bilott đại diện 70.000 người đã uống nước có chứa PFOA trong suốt hàng chục năm. Sẽ như thế nào nếu số tiền thanh toán được sử dụng để kiểm tra sức khỏe của họ? Các thành viên của nhóm nguyên đơn lo ngại về ba việc”, Winter nói. “Một: Trong máu của tôi có chất C8 không? Hai: Nếu có thì có hại không? Ba: Nếu có hại, thì ảnh hưởng là gì?”

Bilott và các đồng nghiệp của ông nhận thức được rằng nếu có thể kiểm tra các khách hàng của mình thì họ có thể trả lời tất cả ba câu hỏi đó. Bây giờ, họ nhận thức được rằng có cách làm. Sau khi thanh toán, nhóm luật sư ép dùng số tiền tiền nhận được để tiến hành một cuộc kiểm tra y tế toàn diện. Tất cả mọi người đều ủng hộ cách giải quyết như thế, và trong vòng có mấy tháng, gần 70.000 người West Virginia đều bán máu  để đổi lấy tấm séc giá 400 USD.

Nhóm các nhà dịch tễ học có quá nhiều dữ liệu y tế và DuPont không thể nào ngăn chặn được. Trên thực tế, việc giải quyết còn có điều khoản là DuPont sẽ tài trợ cho công trình nghiên cứu mà không có hạn chế nào. Các nhà khoa học, không còn phụ thuộc vào ngân sách của giới hàn lâm và các khoản tài trợ, đã thu được thành công lớn về dịch tễ học: dữ liệu cá nhân của toàn bộ dân cư và nguồn lực vô hạn để có thể nghiên cứu chúng. Các nhà khoa học thiết kế 12 công trình nghiên cứu, trong đó có một công trình sử dụng công nghệ mô hình hóa môi trường phức tạp, xác định chính xác số lượng PFOA mà mỗi thành viên của vụ kiện đã đưa vào người.

Người ta cam đoan rằng đội nghiên cứu sẽ đưa ra kết quả có tính thuyết phục. Nhưng Bilott không thể dự đoán được kết quả. Nếu không tìm được mối tương quan giữa PFOA và bệnh tật, thì theo các điều khoản của thỏa thuận khách hàng Bilott sẽ bị cấm, không được kiện tụng về những chấn thương cá nhân. Vì số lượng dữ liệu do công trình nghiên cứu sức khỏe cộng đồng thu được là quá lớn và ngân sách nghiên cứu là vô hạn – DuPont phải cung cấp 33 triệu USD – đội nghiên cứu phải mất nhiều thời gian hơn là dự kiến. Hai năm trôi qua mà không có bất kỳ phát hiện nào. Bilott chờ đợi. Năm thứ ba trôi qua. Sau đó là năm thứ tư, thứ năm, rồi thứ sáu. Đội nghiên cứu vẫn không nói gì. Bilott chờ đợi.

Nhưng đấy không phải là chờ đợi một cách yên ổn. Áp lực đối với Bilott trong công ty Taft xuất hiện ngay từ khi ông bắt đầu vụ kiện tập thể vào năm 2001. Các khoản án phí cho việc kiện tụng đã giúp ông, nhưng thời gian cứ trôi đi mà không có giải pháp, còn Bilott thì vẫn tiếp tục tiêu tiền của công ty và không thể lôi kéo được khách hàng, ông thấy mình rơi vào vị trí khó xử.

“Vụ này”, Winter nói, “dù có kết thúc thành công đến mức nào, sẽ không làm cho công ty Taft quên được những thứ họ đã mất trong quá trình kinh doanh dịch vụ pháp luật trong suốt nhiều năm”.

Mảnh đất nơi gia súc của gia đình Tennant từng ăn cỏ. Ảnh: Bryan Schutmaat/The New York Times.

Các nhà khoa học càng nghiên cứu lâu thì vụ kiện càng trở thành tốn kém hơn. Taft tiếp tục trả tiền cho các nhà tư vấn để họ giải thích những phát hiện mới và không chịu chuyển ngay cho các nhà dịch tễ học. Bilott giải thích cho những người tham gia vụ kiện ở West Virginia và Ohio và thường xuyên tới Washington D. C. để tham gia các cuộc họp ở E.P.A., cơ quan quyết định có ban hành các khuyến cáo về PFOA hay không. “Chúng tôi phải chịu quá nhiều chi phí”, Bilott nói. “Nếu đội nghiên cứu khoa học không tìm thấy mối liên kết với bệnh tật, chúng tôi sẽ phải ăn tất”.

Khách hàng gọi điện cho Bilott, nói rằng họ được chẩn đoán là bị ung thư hay một người nào đó trong gia đình đã chết. Họ muốn biết vì sao lại lâu như thế. Bao giờ thì họ được đền bù? Trong số đó có Jim Tennant. Wilbur, bị ung thư, đã chết vì nhồi máu cơ tim. Hai năm sau, vợ của Wilbur chết vì ung thư. Bilott bị dày vò bởi “ý nghĩ cho rằng chúng tôi vẫn không thể buộc công ty này chịu trách nhiệm về những việc họ đã làm sớm hơn để cho mọi người nhìn thấy kết quả”.

Taft không nao núng trong việc giúp đỡ vụ kiện này, nhưng căng thẳng đã bắt đầu xuất hiện. “Có căng thẳng”, Sarah Barlage, vợ Bilott, nói. “Anh ấy bực mình vì kéo dài quá lâu. Nhưng anh ấy vẫn quyết tâm. Anh ấy ngoan cường lắm. Mỗi ngày trôi qua mà không có tí nhúc nhích nào càng làm cho anh ấy quyết tâm làm tới cùng. Nhưng trong lòng, chúng tôi biết rằng vụ kiện này sẽ kéo dài mãi mãi”.

Các đồng nghiệp cùng tham gia vụ kiện thấy Bilott có thay đổi. “Tôi cảm thấy rằng áp lực với ông là rất lớn”, Winter nói. “Rob mới lập gia đình, mấy đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn, và còn bị áp lực của công ty. Rob là một người tự tin. Ông không phàn nàn. Nhưng ông có biểu hiện là đang rất căng thẳng”.

Năm 2010, Bilott bắt đầu bị căn bệnh kỳ lạ: Mắt mờ, ông không thể mặc được tất chân, hai cánh tay bị liệt. Bác sĩ không biết bệnh gì. Bệnh tái phát theo chu kỳ, mắt mờ, nói lắp và khó vận động một nửa người. Bệnh xảy ra bất ngờ, mà không có triệu chứng báo trước và ảnh hưởng kéo dài nhiều ngày. Các bác sĩ hỏi liệu ông có làm việc căng thẳng quá hay không. “Không khác so với bình thường”, Bilott nói với họ. “Không có chuyện gì xảy ra trong suốt mấy năm qua”.

Cuối cùng, các bác sĩ đã tìm được loại thuốc mang lại hiệu quả. Hết bệnh, triệu chứng cũng hết, nếu không kể tới những cú giật thỉnh thoảng mới xảy ra, nhưng được kiểm soát, song ông không nhận được chẩn đoán.

“Đây là do căng thẳng”, Bilott nói, “không biết chuyện gì đang xảy ra nữa”.

Tháng 12 năm 2011, sau bảy năm, các nhà khoa học bắt đầu tung ra những phát hiện của họ: “Có thể có liên kết” giữa chất PFOA và ung thư thận, ung thư tinh hoàn, bệnh tuyến giáp, mỡ máu, tiền sản giật và viêm loét đại tràng.

“Nhẹ cả người”, Bilott nói, hạ thấp đến mức gần như tự làm lu mờ chính mình. “Chúng tôi có thể cung cấp cho người dân những điều chúng tôi đã hứa với họ cách đây bảy năm. Nhất là vì trong suốt những năm đó, DuPont thường nói rằng chúng tôi nói dối, chúng tôi tìm cách dọa dẫm và lừa dối người dân. Bây giờ chúng tôi đã có câu trả lời mang tính khoa học rồi”.

Đến tháng mười, 3.535 nguyên đơn đã khởi kiện DuPont vì đã bị thiệt hại về sức khỏe. Thành viên đầu tiên của nhóm này ra tòa là một người đã thoát chết vì ung thư thận, tên là Carla Bartlett. Tháng mười năm đó, Bartlett được đền bù 1,6 triệu USD. DuPont có kế hoạch kháng cáo. Điều này có thể tạo ra hậu quả vượt ra ngoài vụ kiện của Bartlett: Bà là một trong năm vụ “dẫn đầu” sẽ được xử trong năm đó.

Sau đó, DuPont có thể giải quyết với tất cả các thành viên của nhóm tham gia vụ kiện tập thể bị ảnh hưởng, bằng cách sử dụng kết quả của những vụ “dẫn đầu” nhằm xác định số tiền đền bù. Hay DuPont có thể chiến đấu với từng vụ kiện, chiến thuật mà các công ty thuốc lá đã sử dụng nhằm chống lại các vụ kiện vì những tổn thất gây ra với từng cá nhân. Với tốc độ là bốn vụ án một năm, DuPont sẽ tiếp tục chiến đấu vì kiện cáo liên quan tới PFOA cho đến năm 2890.

Việc DuPont tiếp tục không nhận trách nhiệm làm Bilott phát điên. “Nghĩ rằng bạn đã đàm phán với niềm tin rằng thỏa thuận sẽ được tất cả mọi người tuân thủ và làm việc vì chuyện đó suốt bảy năm trời, và đến lúc mà chuyện đó phải được giải quyết, nhưng sau đó người ta vẫn không thừa nhận”, Bilott nói. “Tôi nghĩ về việc các khách hàng đã chờ đợi việc này, nhiều người ốm hay đã chết trong khi chờ đợi. Thật đáng phẫn nộ”.

Trong thỏa thuận với E.P.A., DuPont hứa ngưng sản xuất và sử dụng PFOA vào năm 2013. Năm công ty khác trên thế giới đang sản xuất PFOA cũng đang giảm dần sản lượng. DuPont, hiện đang đàm phán để sáp nhập với Dow Chemical, năm ngoái công ty này cũng đã thắt chặt công việc kinh doanh hóa chất: Họ đã tách ra thành công ty mới gọi là Chemours.

Công ty mới đã thay thế PFOA bằng hợp chất có gốc là fluorine, phân hủy nhanh hơn – cách đây 20 năm, DuPont đã xem xét khả năng thay thế đó, nhưng sau đó lại bỏ. Tương tự như PFOA, chất mới không nằm trong bất kỳ quy định nào của E.P.A. Khi được hỏi về mức độ an toàn của hóa chất mới, Chemours trả lời bằng một tuyên bố: “Khá nhiều dữ liệu chứng minh rằng các chất hóa học thay thế này có thể được sử dụng một cách an toàn”.

Tháng 5 vừa qua, 200 nhà khoa học từ nhiều ngành khác nhau đã ký Tuyên bố Madrid, bày tỏ quan ngại về việc sản xuất tất cả các chất fluorochemicals, hay PFASs, trong đó có những chất thay thế PFOA. PFOA và những chất thay thế nó bị nghi là thuộc về nhóm lớn của các hợp chất nhân tạo, gọi là các hóa chất phá vỡ nội tiết tố; những hợp chất này, trong đó có những hóa chất được sử dụng để sản xuất thuốc trừ sâu, chất dẻo, xăng dầu, ảnh hưởng tới quá trình sinh sản và trao đổi chất của con người, gây ung thư, gây ra các vấn đề về tuyến giáp và các rối loạn hệ thần kinh. Nhưng trong năm năm vừa qua, một làn sóng mới các công trình nghiên cứu khoa về nội tiết phát hiện ra rằng ngay cả liều rất thấp các hóa chất này cũng có thể gây ra các vấn đề đáng kể về sức khỏe.

Trong số các “khuyến nghị” khoa học trong tuyên bố Madrid: “Ban hành pháp luật chỉ sử dụng các chất PFAS trong trường hợp thật sự cần thiết” và “Bất cứ khi nào có thể, thì tránh các sản phẩm có chứa hay quá trình sản xuất có sử dụng các chất PFAS. PFAS bao gồm nhiều sản phẩm chống vết bẩn, chống thấm hay không dính”.

Khi được hỏi về Tuyên bố Madrid, Dan Turner, phụ trách quan hệ truyền thông toàn cầu của DuPont, viết trong một email: “DuPont không tin Tuyên bố Madrid phản ánh quá trình nghiên cứu một cách thấu đáo các dữ liệu hiện có về các chất thay thế cho perfluorochemicals, ví dụ như PFOA. DuPont đã làm việc suốt hơn mười năm, với sự giám sát của các nhà quản lý, nhằm đưa ra các chất thay thế. Đã tìm được khá nhiều dữ liệu, chứng minh rằng những chất thay thế này bị loại khỏi cơ thể nhanh hơn hẳn PFOA và khá an toàn đối với sức khỏe. Chúng tôi tin rằng những hóa chất thay thế này có thể được sử dụng một cách an toàn – có đầy đủ các tính chất và các dữ liệu đã được sử dụng để đăng ký với cơ quan bảo vệ môi trường trên toàn thế giới”.

Năm nào Rob Bilott cũng viết thư cho E.P.A. và Cục Bảo vệ Môi trường West Virginia, thúc giục họ đưa ra quy định về nồng độ PFOA trong nước uống. Năm 2009, E.P.A. ban hành giới hạn “tạm thời” mang tính tư vấn là 0,4 phần tỷ nếu tiếp xúc trong thời gian ngắn, nhưng chưa bao giờ đưa ra con số cuối cùng. Điều này có nghĩa là các nhà máy nước địa phương không có trách nhiệm phải nói với khách hàng rằng nước của họ có chứa PFOA hay không. Trả lời bức thư gần đây nhất của Bilott, E.P.A. tuyên bố sẽ công bố “nồng độ PFOA an toàn đối với sức khỏe” trước năm 2016”.

Mức độ mang tính tư vấn này, nếu được công bố thực sự, có thể là một nguồn an ủi cho các thế hệ tương lai. Nhưng nếu bạn là người có tri giác và đọc bài viết này vào năm 2016, thì trong máu của bạn bạn đã có PFOA rồi. Nó nằm trong máu của cha mẹ bạn, trong máu của con bạn, trong máu của người yêu bạn. Nó thâm nhập vào đó như thế nào? Nó thâm nhập qua không khí, qua thức ăn, nước uống của bạn, thông qua những dụng cụ làm bếp không dính, qua dây rốn của bạn. Hay là bạn có thể đã uống nước nhiễm chất PFOA.

Nhóm công tác môi trường đã phát hiện ra các fluorochemicals trong 94 nhà máy nước trên khắp 27 bang (xem bên trên 38). Người dân ở Issaquah, ở Wash., ở Wilmington, Del, ở Colorado Springs; và Nassau County ở Long Island là những người sử dụng nước có nồng độ fluorochemicals cao hơn so với một số nhà máy nước khác, trong vụ kiện tập thể của Rob Bilott. Nước uống ở chính Parkersburg, nhà máy nước ở đó không nằm trong đơn kiện tập thể ban đầu và đã không buộc được DuPont trả tiền cho việc lắp đặt hệ thống lọc, hiện đang có nồng độ ô nhiễm PFOA khá cao. Hầu hết người dân dường như không biết chuyện này.

Các nhà khoa học tiến hành kiểm tra ở bất cứ đâu thì cũng đều phát hiện được PFOA. PFOA có trong máu hay trong các cơ nội tạng quan trọng của cá hồi Đại Tây Dương, của cá kiếm, cá đối sọc, trong hải cẩu xám, trong chim cốc, trong gấu Bắc Cực ở Alaska, trong bồ nông nâu, trong rùa biển, trong đại bàng biển, trong đại bàng hói miền Trung Tây, trong sư tử biển California, và trong chim hải âu lớn trên đảo Sand Island, nơi ở của vật hoang dã trên đảo Midway Atoll, nằm giữa Bắc Thái Bình Dương, nửa đường từ Bắc Mỹ tới châu Á.

“Chúng tôi chứng kiến tình huống”, Joe Kiger nói, “xuất phát từ Washington Works, lan ra khắp bang, rồi lan ra khắp Hoa Kỳ, và bây giờ nó hiện diện khắp nơi, trên toàn thế giới. Chúng tôi đã cậy nắp được một cái gì đó. Nhưng không chỉ là DuPont. Lạy Chúa. Hiện có 60.000 hóa chất không được kiểm soát. Chúng tôi không biết mình đang làm gì nữa”.

Bilott không ân hận vì đã chiến đấu với DuPont trong suốt 16 năm qua và cũng không để cho PFOA tiêu hủy sự nghiệp của mình. Nhưng ông vẫn còn giận. “Nghĩ rằng DuPont kéo dài như thế”, Bilott nói bằng giọng vừa ngạc nhiên vừa giận dữ, “là để họ có thể tiếp tục thu lợi nhuận từ PFOA, sau đó thì được các cơ quan chính phủ giảm dần, cuối cùng là chỉ thay nó bằng cái chất mà chưa ai biết sẽ có ảnh hưởng đối với con người như thế nào – chúng tôi đã nói với các cơ quan như thế từ năm 2001, nhưng thực chất là họ chẳng làm gì hết. Chất này tiếp tục được sử dụng trong suốt 14 năm qua, nó tiếp tục có mặt trong nước uống của cả nước. DuPont chỉ lặng lẽ chuyển sang chất khác mà thôi. Trong thời gian đó, họ chiến đấu với tất cả những người đã bị nó làm hại”.

Bilott hiện đang theo đuổi vụ Wolf kiện DuPont, vụ thứ hai trong số những vụ kiện tập thể của ông. Nguyên đơn, John M. Wolf sống ở Parkersburg, tuyên bố rằng PFOA có trong nước uống của ông làm cho ông bị viêm đại tràng. Phiên tòa bắt đầu vào tháng 3. Sau đó sẽ phải xử 3.533 vụ kiện nữa.

Chú thích của The New York Times:

Sửa lại: 24 tháng 1 năm 2016 

Bài báo ngày 10 tháng 1 viết về vụ kiện chống lại DuPont vì gây ra ô nhiễm hóa học đã nói không chính xác phản ứng của DuPont trong những năm 1970 khi công ty này phát hiện nồng độ PFOA cao trong máu của công nhân ở Washington Works – nhà máy của DuPont. DuPont không thông báo cho E.P.A., chứ không phải là giữ bí mật với người lao động. Bài báo cũng nói sai năm DuPont đồng ý dàn xếp 16,5 triệu USD với E.P.A. Đấy là năm 2005, chứ không phải năm 2006. Ngoài ra, bài báo cũng nói không đúng tên nhà máy nước nơi người dân nhận được thư từ của nhà máy, nói rằng đã phát hiện được PFOA trong nước uống. Đó là Lubeck, W.Va. – chứ không phải Little Hocking, Ohio. Bài báo nói sai nhà máy nước, nơi nồng độ PFOA gấp bảy lần mức cho phép. Đấy là Little Hocking, chứ không phải Lubeck. Bài báo cũng nói sai tên thành phố ở bang Washington, nơi có fluorochemicals trong nước uống. Đấy là Issaquah, chứ không phải Seattle.

Bạn đã đăng ký thành công!

Mừng bạn trở lại!

Bạn đã đăng ký thành công.

Vui lòng kiểm tra hộp thư để lấy link đăng nhập.

Thông tin thanh toán của bạn đã được cập nhật.

Thông tin thanh toán của bạn chưa được cập nhật.