Xã hội dân sự và phát triển quốc gia - Kỳ 1: Vốn xã hội
🎧Mời bạn nghe bản audio của bài này:Xã hội dân sự và phát triển quốc gia - Kỳ 1:
Tháng 7 năm 1776, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ ra đời, mở đầu bằng những tuyên bố hùng hồn của Thomas Jefferson:
“…Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc.
Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các chính quyền được lập ra trong nhân dân và có được quyền lực chính đáng trên cơ sở sự đồng ý của nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an toàn và hạnh phúc của họ.”
Giờ đây, người ta thường coi kiểu chính quyền “của dân, do dân, và vì dân” này như một lẽ đương nhiên.
Song đã bao giờ bạn đọc tự hỏi, từ đâu mà con người sở hữu những quyền tự nhiên ấy, rồi tại sao chính quyền lại phải gánh trách nhiệm đảm bảo các quyền của người dân, và bằng cớ nào mà người dân có thể lật đổ một chính quyền?
Triết gia người Anh John Locke đã giải đáp những câu hỏi trên thông qua danh tác chính trị “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của mình, ra đời vào năm 1689.
Các quyền đến từ đâu?
Bìa sách “Khảo luận thứ hai về chính quyền” bản dịch Việt ngữ của dịch giả Lê Tuấn Huy. Ảnh: NXB Tri Thức.
Theo Locke, con người thuở ban sơ đã cùng sinh sống trong trạng thái tự nhiên, nơi không có chính quyền, không có luật pháp, cũng không có những quan tòa.
Ở đó, tất cả con người, bởi với tư cách cùng là các tạo vật của Thượng đế, nên họ đều tự do và bình đẳng.
Sự tự do tự nhiên ấy không phải là phát minh gì mới mẻ của John Locke. Mới từ thế kỷ 13, linh mục Sir Thomas Aquinas đã bắt đầu diễn đạt về thần học tự nhiên. Ba thế kỷ sau, nhà thần học người Anh Richard Hooker đã tiếp nối Aquinas mà đưa ra những diễn giải về luật tự nhiên.
Cũng như Hooker, Locke tin rằng việc thiếu chính quyền và luật pháp không làm cho trạng thái tự nhiên chìm trong hỗn loạn. Tự nhiên có luật lệ của riêng nó. Trật tự được duy trì bởi các luật tự nhiên mà Locke gọi là một tập hợp các quy tắc đạo đức do Thượng đế mang lại, có giá trị khách quan, áp dụng cho tất cả mọi người.
Thông qua lý trí, con người có thể khám phá ra luật tự nhiên này, từ đó hiểu rằng “tất cả mọi người đều bình đẳng, tự do và độc lập, nên không ai có quyền làm hại đến sinh mạng, sức khỏe, tự do, và tài sản của người khác”.
Bởi trong trạng thái tự nhiên không có các vị quan tòa đứng ra phán xử, nên con người ở đó còn giữ cả quyền củng cố luật tự nhiên. Tức là, giả như một lúc nào đó họ cảm thấy quyền của họ bị xâm phạm, thì họ có quyền tự phán quyết xem đâu là hình phạt thích hợp, rồi cũng chính họ sẽ tự thực thi hình phạt đó.
Cớ gì con người lại rời bỏ trạng thái tự nhiên?
Tuy nhiên, trạng thái tự nhiên không êm thấm như ta tưởng.
Thật không may, bởi con người không phải là một loài sinh vật hoàn toàn duy lý và khách quan, nên trạng thái tự nhiên chứa đầy rẫy những khả năng xung đột.
Có những người sẵn sàng bất tuân luật lệ, thế là họ xâm phạm các quyền tự nhiên của người khác: họ có thể cướp bóc tài sản, nô dịch kẻ khác, hay thậm chí đánh giết lẫn nhau.
Trong trường hợp ấy, ta biết căn cứ vào đâu để giải quyết ngoại trừ cái gọi là “luật tự nhiên” vốn mơ hồ, bất thành văn, và ngầm định? Bởi thế, khi trở thành vị quan tòa trong trường hợp của chính mình, con người rất có thể sẽ diễn giải luật tự nhiên theo ý mình một cách thiên vị, chủ quan.
Kết quả là, trong trạng thái tự nhiên, các quyền tự nhiên của con người không được đảm bảo. Thậm chí, những mối đe dọa rình rập dễ làm trạng thái tự nhiên biến thành chiến tranh. Vì vậy, con người rời bỏ trạng thái tự nhiên.
Rời trạng thái tự nhiên, con người sẽ đi đâu?
Dĩ nhiên tất cả những lý lẽ nêu trên đều là giả định của một vị triết gia chưa hề trải qua trạng thái tự nhiên.
Vào thời Locke sống, tức thế kỷ 17, xã hội vốn đã có những trật tự riêng dưới chế độ chuyên chế của vua Charles II rồi tới James II. Khi đó, Locke đang là bác sĩ cá nhân cho một chính trị gia hàng đầu đảng Whig – một trong những đảng phái chính trị đầu tiên trên thế giới – là Bá tước Shaftesbury, người luôn tìm cách lật đổ Jame II khỏi ngai vàng.
Đối với những người ủng hộ đảng Whig, chính quyền đương thời không được thiết lập dựa trên sự đồng thuận của người dân. Bởi vậy mà sau cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1688 lật đổ vua James, “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của Locke được coi như tuyên ngôn chính trị của cuộc cách mạng, về nguồn gốc của chính quyền.
Ấy là, chính quyền được sinh ra khi con người từ bỏ trạng thái tự nhiên của họ mà tham gia vào một khế ước xã hội.
Tranh mô tả buổi ký kết Tuyên ngôn độc lập Mỹ – bản tuyên ngôn vốn chịu nhiều ảnh hưởng từ tư tưởng của John Locke. Tranh: “Declaration of Independence”, John Trumpull (1817).
Theo đó, xưa kia các cá nhân tự mình phán xử và tự tay thực thi luật tự nhiên, thì nay họ trao các quyền ấy cho cộng đồng do một chính quyền đại diện. Việc chuyển giao này dựa trên sự đồng thuận tự nguyện: “Con người bởi bản chất là tự do, bình đẳng, độc lập, nên không ai… bị buộc phải phục tùng quyền lực chính trị của người khác, mà không có sự đồng thuận của anh ta”.
Locke cho rằng việc chuyển giao quyền này xác minh mục đích của chính quyền: nó có trách nhiệm bảo vệ các quyền tự nhiên của con người như là quyền sống, quyền tự do, và quyền sở hữu – những nhiệm vụ mà trạng thái tự nhiên không làm được. “Mục đích chính và vĩ đại mà con người liên kết thành một cộng đồng, và đặt họ bên dưới một chính quyền, là để bảo vệ tài sản của họ.”
Nhưng ông cũng khẳng định “tất cả những điều này đều không hướng đến mục đích nào khác ngoài hòa bình, an ninh và sự tốt lành chung của mọi người”.
Để làm được điều đó, chính quyền cần phải cung cấp một bộ luật để giải quyết các bất đồng, giải quyết bất đồng như một quan tòa vô tư trên cơ sở của luật, và sử dụng sức mạnh của mình để củng cố các luật lệ hợp pháp do cộng đồng tạo ra.
Làm sao để chính quyền không biến thành kẻ mạnh đàn áp người dân?
Trước cuốn khảo luận thứ hai này, John Locke còn viết một tập “Khảo luận thứ nhất về chính quyền” nhằm phản biện quan điểm về nguồn gốc quyền lực chính quyền của Sir Robert Filmer. Trong tác phẩm Patriarcha, Filmer cho rằng bởi sở hữu thẩm quyền thần thánh nên vua chúa có quyền cai trị các thần dân. Locke hoàn toàn bác bỏ lập luận của Filmer, và cũng hoàn toàn phản đối kiểu chính quyền chuyên chế ấy.
Ảnh chụp trang bìa phụ cuốn Patriarcha của nhà lý thuyết chính trị Sir Robert Filmer. Ảnh: christies.com.
Song, dẫu không biện minh bằng quyền lực thần thánh, thì chính quyền theo bản khế ước xã hội kia vẫn có thể đàn áp người dân. Với quyền lực quá lớn trong tay, chính quyền hoàn toàn có thể vi phạm các quyền của người dân ở mức độ lớn và rộng khắp. Mối đe dọa này kinh khiếp hơn nhiều so với những rủi ro đụng độ trong trạng thái tự nhiên.
Rõ ràng, quyền lực luôn có khuynh hướng bị lạm dụng, như câu nói nổi tiếng của Lord Acton: “Quyền lực làm con người tha hóa. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối”.
Do đó, cách tốt nhất để giảm thiểu nạn lạm dụng quyền lực, theo Locke, là phải phân tán quyền lực. Locke đề xuất giao quyền lực của chính quyền vào trong tay nhiều cơ quan khác nhau, cụ thể là ba nhánh hành pháp, lập pháp, và liên minh độc lập với nhau.
Về sau, cách phân chia này của Locke được triết gia Montesquieu tiếp thu và trình bày trong cuốn “Tinh thần pháp luật”, với ba nhánh quyền lực là lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Đây cũng chính là mô hình phân quyền mà nền chính trị Mỹ đang áp dụng.
Làm gì khi chính quyền vượt quá phạm vi quyền lực của nó?
Nếu như Thomas Hobbes trong tác phẩm “Leviathan” khẳng định rằng việc lật đổ một chính quyền sẽ dẫn tới tình trạng vô chính phủ ngay tắp lự, thì cuộc Cách mạng Vinh quang lại không đem tới cái kết quả tồi tệ ấy.
Vào những năm 1690, sau cuộc cách mạng, người dân Anh đã chứng kiến cảnh chuyển mình tích cực của nền chính trị quốc gia. Địa vị của Quốc hội gia tăng, trong khi uy quyền của nhà vua ngày càng suy giảm. Chính nhờ vậy mà cuộc cách mạng lật đổ vua James II không ngừng được ca tụng, còn “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của John Locke – vốn được sinh ra để biện minh cho tính chính đáng của cuộc cách mạng này – được đón nhận khắp nơi.
Chính thành công ấy càng củng cố cho quan điểm của Locke, khi trả lời cho câu hỏi trên, rằng “bất cứ khi nào chính quyền tìm cách tước đoạt và phá hoại tài sản của người dân, hoặc đẩy họ vào cảnh nô lệ dưới một thứ quyền hành tùy tiện, thì chính quyền đã tự đặt mình vào tình trạng chiến tranh với người dân, do vậy người dân không cần phải phục tùng chính quyền thêm nữa.”
Bởi dù đã giới hạn quyền lực chính quyền bằng cách phân chia quyền lực, song điều đó vẫn không hoàn toàn đảm bảo rằng chính quyền sẽ chỉ làm đúng cái phận sự của nó mà không phá rào.
Theo khế ước xã hội, quyền lực của chính quyền đến từ sự ủy nhiệm của cộng đồng. Bất cứ khi nào chính quyền hành động ngoài những quyền được cộng đồng ủy nhiệm, thì nó đang hành động một cách tùy tiện, và quyền lực đó là bất hợp pháp.
Khi đó, không nghi ngờ gì nữa, người dân có quyền nổi dậy lật đổ cái chính quyền phi pháp ấy để giành lại quyền lực của mình, bởi “Quyền lực tối cao vĩnh viễn nằm trong tay cộng đồng để bảo vệ người dân trước những nỗ lực hay mưu đồ của bất kỳ ai – kể cả các nhà lập pháp của họ – khi mà những người này trở nên quá ngu xuẩn hay quá độc ác khi thực hiện những ý định chống lại các quyền tự do và sở hữu của người dân”.
Tuần tự trả lời một cách thấu đáo cho cả năm câu hỏi trên, “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của Locke đã đặt ra một nền tảng lý thuyết vững chắc cho nguồn gốc, phạm vi, và mục đích của chính quyền dân sự.
Không chỉ là lời biện hộ đầy sức thuyết phục cho cuộc Cách mạng Vinh quang tại Anh – cuộc cách mạng đã thiết lập nên nhà nước tự do hiện đại đầu tiên trên thế giới, mà “Khảo luận thứ hai về chính quyền” cũng chính là nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Hoa Kỳ.
—
Hiện trong các đầu sách Việt ngữ về John Locke, ngoài “Khảo luận thứ hai về chính quyền” do dịch giả Lê Tuấn Huy chuyển ngữ, còn có bản dịch “Vài suy nghĩ về giáo dục” của dịch giả Dương Văn Hóa và tác phẩm “Chat với John Locke” của nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn.