Thư cuối tuần - 24/11/2024
Đây là Thư cuối tuần của Luật Khoa tạp chí. Thư tin này chỉ làm một việc đơn giản là
Kim Dung đã theo đuổi lý tưởng công bình và tự do trong phần lớn sự nghiệp của mình, nhưng phần cuối cuộc đời hành tẩu giang hồ của ông không có gì nhiều ngoài nỗi bất lực trước thực tế chính trị Trung Hoa.
Tôi khó có thể tự nhận mình là một fan chân chính của truyện kiếm hiệp Kim Dung (Jin Yong). Độ tuổi đọc Kim Dung của tôi vĩnh viễn dừng lại ở con số 17, sau khi tôi đọc xong hai quyển Lộc Đỉnh Ký và Tiếu ngạo Giang hồ. Đó là lúc mà tôi tin tin tưởng rằng mọi tác phẩm của Kim Dung đều hướng đến tư tưởng thống nhất Lão giáo và Trang tử – mà đặc biệt lấy cảm hứng từ Nam Hoa Kinh, quyển tôi từng rất ưa thích trong Lục tử Tài thư. Hiểu được chân lý của vũ trụ, con người buông bỏ đi lợi ích cá nhân, coi nhẹ được mất ở đời thì mới đạt đến cảnh giới của “vô vi” – tùy kỳ tự nhiên, từ đó sống hạnh phúc và thanh thản.
Ở cái tuổi 17 bồng bột và tham gia cuộc biểu tình đầu tiên của mình, tôi đã không còn cho tư tưởng như vậy là đúng. Chúng quá có lợi cho giai cấp lãnh đạo. Chúng khuyến khích một xã hội thụ động và buông bỏ, tạo ra những con người cho rằng đấu tranh chính trị là quá xô bồ, là phàm tục. Kiếm hiệp Kim Dung vì vậy đối với tôi trở thành một “sản phẩm của phong kiến”, trở ngại cho sự phát triển tư tưởng, và các danh gia chính trị – triết học – pháp luật phương Tây hấp dẫn với tôi hơn rất nhiều.
10 năm đi – học – đọc và nhìn lại, tôi vẫn chưa hiểu nhiều về ông.
Tác phẩm của Kim Dung có vẻ đã vượt qua mọi rào cản về chính trị, địa giới và tư tưởng, nhưng với bản thân Tra Lương Dung (Cha Leung-yung / Louis Cha, tên thật của Kim Dung), ông luôn là một người nhất quán về tư tưởng, nhưng bất lực trước thời cuộc.
Kim Dung tốt nghiệp trường Luật thuộc Đại học Thượng Hải vào năm 1947 và trở thành biên tập viên cho tờ Đại Công báo (Ta Kung Pao), tờ báo lớn và lâu đời bậc nhất Trung Hoa. Có vẻ tinh thần yêu chuộng công lý và ý tưởng về công bình mà môi trường đào tạo khai phóng trang bị cho sinh viên luật đã đi theo ông trong suốt sự nghiệp của mình. Năm 1948, ông may mắn được cử sang Hong Kong làm việc, chỉ một năm trước khi Mao Trạch Đông lên nắm quyền ở đại lục.
Năm 1959, Kim Dung thành lập tờ Minh Báo (Ming Pao), với nguồn lực phát triển chính của tờ báo dựa vào các tập truyện kiếm hiệp của ông, được đăng tải trong mỗi kỳ báo. Song lý tưởng về công bình và kiến thức pháp luật không cho phép ông chỉ sống trong thế giới kiếm hiệp giả tưởng. Với ông, kiếm hiệp (wuxia) chỉ là lớp đường phủ lên để thu hút công chúng, nhưng các tác phẩm phải biểu lộ được quan điểm nghệ thuật và chính trị của ông – mà theo chính miêu tả của Kim Dung, là tự do/cấp tiến (liberal) và chống cường quyền.
Vậy nên từ thập niên 60 đến thập niên 70, ông và Minh Báo là một trong những tờ chống đối quyết liệt nhất Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản ở đại lục, cùng những tay trùm chính trị sừng sỏ như Mao Trạch Đông và “Tứ nhân bang” khét tiếng (Gang of Four).
Cụ thể, Kim Dung dùng ảnh hưởng văn hóa của mình để biến Minh Báo trở thành một nền tảng tin tức và nghiên cứu phi kiểm duyệt, giúp các nhà báo, học giả có thể viết về Cách mạng Văn hóa và vạch trần sự thật đằng sau nó. Đối với ông, việc cho công chúng biết được sự tàn nhẫn và ngu muội của chính sách này ở đại lục là việc làm tối quan trọng để họ luôn cẩn trọng với những thuyết âm mưu, phe thân Mao và những tay cánh tả cuồng tín đang trỗi dậy bên trong lòng Hong Kong.
Năm 1967, ông phải lánh nạn ở Singapore khi có nhiều cuộc bạo loạn và âm mưu ám sát ông tại Hong Kong. Kiếm hiệp Kim Dung khi đó chính thức bị cấm ở Trung Quốc đại lục. Ngoài ra, Kim Dung còn dùng bút danh Hoá Tiểu Miên – Hua Xiaomin (華小民) trong một loạt các bài bình luận lịch sử xuất hiện trong mục “Free Talk” của tờ nguyệt san Minh Báo.
Cho đến nay, Hong Kong vẫn được xem là thánh địa của các báo cáo, nghiên cứu về Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, một phần nhờ vào những đóng góp của Kim Dung.
Ông cũng tranh thủ thể hiện quan điểm chính trị của mình về Cách mạng Văn hóa trong tác phẩm Tiếu Ngạo Giang Hồ, đả kích tham vọng chính trị và niềm tin ngu muội đã gây hại đến cuộc sống, sinh mệnh của nhiều người. Đặc biệt, đối với Mao Trạch Đông, ông dùng nhân vật Đông Phương Bất Bại để đả kích lối sùng bái cá nhân vô lối trong nền chính trị Trung Quốc bấy giờ. Theo ông, Đông Phương Bất Bại là phiên bản châm biếm theo danh xưng “Mặt trời đỏ ở phương Đông” (Đông phương hồng) – cách mà Mao tự gọi mình.
Sau thời đại của Mao, Kim Dung trở lại là một nhân vật được ưa thích của chính trường Trung Hoa đại lục. Ông được chọn tham gia vào Ủy ban Soạn thảo Đạo luật Cơ bản, một dạng hiến pháp dành cho Hong Kong, khi Vương quốc Anh quyết định trao trả lại tô giới này. Việc này một phần do nền tảng tri thức pháp luật và tầm ảnh hưởng văn hóa, khả năng làm dịu căng thẳng, khác biệt giữa các bên của ông. Tuy nhiên, sau sự kiện Lục Tứ, tức vụ thảm sát ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, Kim Dung đã từ bỏ chức vụ trong ban soạn thảo để bảo vệ danh dự và nhân phẩm của ông.
Năm 1992, trong một cuộc phỏng vấn, ông từng lo ngại rằng trao trả Hong Kong trở về với Trung Quốc sẽ tước mất tự do của các thế hệ sau, trong đó có quyền báo chí, quyền tư hữu và cả văn hóa đặc trưng của người dân Hong Kong. Và những lo lắng của ông có vẻ không thừa. Từ đầu những năm 2010, Trung Quốc bắt đầu siết chặt kiểm soát Hong Kong, nhiều tờ báo bị đóng cửa, Trưởng đặc khu trở thành bù nhìn, và lãnh đạo các phong trào dân chủ, sinh viên – học sinh như Dù vàng bị bắt bớ, bỏ tù.
Có lẽ tôi xin mạn phép so sánh chương cuối đời của ông với Vi Tiểu Bảo, khi ông ở cái vị trí mà ai cũng cho rằng ông sẽ hạnh phúc, nhưng sự dằn vặt giữa kỳ vọng thống nhất quốc gia của ông (tương ứng với kỳ vọng giành lại chính quyền cho người Hán của Vi Tiểu Bảo) luôn đối chọi với lý tưởng cá nhân về một xã hội công bình, pháp trị (tương ứng với tình bạn và niềm tin của Vi Tiểu Bảo dành cho Khang Hy).
Và trớ trêu thay, ông mất giữa một Hong Kong hỗn loạn như thế.