Tuần tin: Vương Đình Huệ, Võ Văn Thưởng ‘hạ cánh’ chưa an toàn
Các sự kiện nổi bật: * Kỷ luật ông Vương Đình Huệ; tạm hoãn xử lý ông Võ Văn Thưởng * Việt
“Tán tụng tôi bằng những lời giả dối ngọt ngào. Chúng vẫn hơn là sự thật trần trụi.”
Alexander S. Pushkin – “Người Hùng” (1830)
—
Rất nhiều người Việt Nam ngày nay tin rằng “các Vua Hùng”, trị vì từ năm 2879 đến 258 trước Công nguyên, chính là những ông tổ lập quốc của Việt Nam.
Mười tám vị vua trị vì hơn 2.500 năm, trung bình mỗi người trị vì 139 năm? Một con số có vẻ nên thuộc về huyền sử. Hùng Vương mà chúng ta biết đến ngày nay xuất hiện dưới dạng biên niên sử quốc gia của triều đình Việt Nam – Đại Việt Sử ký Toàn thư do Ngô Sĩ Liên chủ biên, xuất bản năm 1479. Câu chuyện ghi nhận về 18 vị vua, mà vị vua đầu tiên là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ trong câu chuyện “trăm trứng” quen thuộc, nối tiếp nhau trị vì và tạo nên thời kỳ Hồng Bàng, đến 258 TCN thì bị Thục Phán (An Dương Vương) chiếm nước.
Mang nhiều chi tiết thần thoại, thuyết Hùng Vương quảng bá cho nguồn gốc thần thánh, khác biệt của tộc người Kinh chiếm đa số, cùng đó thể hiện mối liên kết huyết thống của bất kỳ nhà nước nào đang tồn tại trên toàn cõi Việt Nam.
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975), tuy đối địch nhau, hai miền Nam – Bắc luôn cố gắng tận dụng câu chuyện Hùng Vương cho mục đích của mình.
Miền Bắc và nỗ lực biến huyền sử thành lịch sử
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập và tuyên bố lập ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người Pháp rõ ràng không hài lòng với điều này – và chiến tranh Đông Dương nổ ra.
Sau thất bại của quân Pháp tại trận chiến chính quy cuối cùng của cuộc chiến – Điện Biên Phủ, một thỏa thuận quốc tế chia cắt Việt Nam thành hai miền với một nhà nước cộng sản ở miền Bắc và một nhà nước chống cộng tại miền Nam (sau này là Việt Nam Cộng hòa). Vào lúc này, VNDCCH gặp một vài khó khăn trong việc xác định cách thức mà họ ứng xử trước lịch sử về Hùng Vương và những lễ hội kỷ niệm liên quan.
Trước đó, vào năm 1946, khi VNDCCH còn mang tính trung lập và cố gắng thể hiện mình là đại diện cho nhiều đảng phái, tầng lớp nhân dân, chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh 22/SL về việc ấn định những ngày nghỉ Tết, kỷ niệm lịch sử và lễ tôn giáo có bao gồm ngày giỗ tổ Hùng Vương trong danh sách các ngày lễ quốc gia. Danh sách này còn bao gồm cả các ngày lễ Phật và lễ Thánh, có vẻ như là một cách để tập hợp quần chúng nhân dân và thể hiện tính đại đồng của nhà nước mới.
Tháng 9/1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hồ Chí Minh gặp gỡ các đại diện của Quân đội Nhân dân Việt Nam để phát biểu tại đền Hùng trước khi về tiếp quản Hà Nội, từ đó cho ra đời câu nói rất được ưa thích của báo chí và sách vở truyền thống tại Việt Nam: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Câu nói báo hiệu xu hướng mong muốn chuyển đổi huyền sử Hùng Vương trở thành một sự kiện lịch sử nghiêm túc của ông.
Tuy nhiên, ngay sau năm 1954, môi trường chính trị Việt Nam trở nên thù địch với các lễ nghi mang tính tôn giáo, mê tín dị đoan và phong tục tập quán mang bản chất “phong kiến”. Điều này xuất phát từ cách Đảng Cộng sản khi đó hiểu về vấn đề tôn giáo trong học thuyết Mác – Lê-nin.
Hàng loạt chùa chiền, đền tự ở miền Bắc nhanh chóng bị phá hủy, bỏ hoang hay chuyển mục đích sử dụng, theo nghiên cứu của giáo sư Olga Dror (Đại học Texas A&M, Hoa Kỳ). Đền Hùng nhanh chóng rơi vào tình trạng hư hỏng, đổ nát vì không có ai thăm viếng, chăm nom hay gìn giữ. Lần duy nhất lễ kỷ niệm Vua Hùng được tổ chức tại miền Bắc suốt giai đoạn từ 1954 đến thập niên 1980 là vào năm 1955 ở đỉnh Nghĩa Lĩnh. Hồ Chí Minh cũng có đến thăm đền Hùng một số lần khác, mà cụ thể là vào năm 1962, song nhằm tổ chức kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám. Trong bài diễn văn của ông cũng tuyệt không nhắc đến Vua Hùng.
Trong một nghiên cứu khác, giáo sư Olga Dror cho rằng đây là dấu hiệu giới cầm quyền của VNDCCH chưa biết phải xử trí thế nào với bản chất tín ngưỡng, phong tục dân gian của huyền sử Hùng Vương, và ông Hồ Chí Minh cũng không sẵn lòng phổ biến những luồng tư tưởng trái Marxist cho đến khi họ tìm ra cách lý tính hóa chúng.
Tuy nhiên, giá trị tinh thần của Hùng Vương về sự thống nhất và tính huyết thống của toàn dân tộc trong một cuộc chiến tranh được phát động dưới danh nghĩa “thống nhất đất nước” là rất rõ ràng. Đảng Cộng sản Việt Nam dành rất nhiều tâm sức để kéo huyền sử Hùng Vương ra khỏi lãnh địa tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, và từ đó lịch sử hóa – hiện thức hóa nó. Họ không chỉ muốn chứng minh sự tồn tại trên thực tế của các “Hùng Vương”, mà còn muốn làm mình “trong sạch” khỏi hình ảnh ủng hộ việc tổ chức các lễ tưởng niệm mang tính thần thánh, mê tín.
Nhu cầu lịch sử hóa và tuyên truyền hình ảnh Hùng Vương trở nên quá quan trọng vào thời điểm 1968, đỉnh điểm của chiến tranh Việt Nam. Nó quan trọng đến mức VNDCCH quyết định thành lập Viện Khảo cổ học do nhà nước tài trợ và quản lý với ưu tiên cao nhất là sưu tầm, khảo cứu khoa học các minh chứng về thời kỳ Hồng Bàng và các Hùng Vương. Dự án được các nhà khảo cổ học, sử học, nhà địa chất, nhà ngôn ngữ học, nhà dân gian học và các nhóm nghiên cứu khác phối hợp thực hiện trong giai đoạn từ 1968 đến 1971.
Theo giáo sư Edward Miller (Đại học Dartmouth, Hoa Kỳ), trong cuốn “Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam”, mục tiêu của hàng loạt các nghiên cứu giai đoạn này là nhằm chứng minh truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt Nam, gốc rễ sâu sắc của quốc gia Việt Nam ngày nay, cũng như nguồn gốc cùng một tổ tiên của cả hai nhà nước Bắc – Nam.
Sự đa nguyên mơ hồ tại miền Nam Việt Nam
Trái ngược với miền Bắc, các đối thoại về Hùng Vương tại miền Nam Việt Nam phong phú và đa dạng hơn, một biểu hiện khá rõ ràng về sự cởi mở của giới học thuật và xã hội dân sự miền Nam so với miền Bắc.
Tuy nhiên, cũng do đó, việc sử dụng huyền sử Hùng Vương tại miền Nam Việt Nam thiếu tính định hướng hơn so với chính sách của VNDCCH. Nếu ở miền Bắc, việc sử dụng tính lịch sử của các Vua Hùng là nhằm đề cao hình ảnh của một quốc gia thống nhất và từ đó phục vụ chiến lược tuyên truyền “giải phóng”, tiếp quản miền Nam Việt Nam, thì chính phủ Việt Nam Cộng hoà (VNCH) chưa bao giờ trực tiếp tuyên bố hay thể hiện tham vọng đánh chiếm hay tiếp quản miền Bắc. Vậy nên, quảng bá một vị “cha chung” của dân tộc Việt Nam là một quyết định tương đối khó hiểu của các chính khách miền Nam Việt Nam.
Cũng theo các nghiên cứu kể trên, hình ảnh của các Vua Hùng được sử dụng cho nhiều mục tiêu khác nhau.
Năm 1949, Quốc gia Việt Nam được thành lập dưới sự bảo trợ của người Pháp, và ngay lập tức công nhận ngày lễ kỷ niệm Hùng Vương là một ngày nghỉ lễ quốc gia. Năm 1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu của Quốc gia Việt Nam cùng các bộ trưởng của mình bay ra phía Bắc để dự lễ giỗ Hùng Vương trên đỉnh Nghĩa Lĩnh. Tại thời điểm này, các chính trị gia thân thân Pháp cho rằng hình ảnh có nguồn gốc “chính chủ” Việt Nam như Hùng Vương sẽ là cách tốt nhất để chống lại luồng chủ nghĩa chính trị ngoại lai như cộng sản.
Tuy nhiên, ngay sau khi nắm quyền ở miền Nam Việt Nam từ năm 1954, Ngô Đình Diệm quyết định không dùng ngày lễ kỷ niệm các Vua Hùng nằm trong danh sách những ngày nghỉ lễ quốc gia (dù ông cũng không cấm các tổ chức tư nhân tự mình tiến hành hoạt động lễ mừng). Điều này khiến nhiều người trong giới trí thức miền Nam thời kỳ bấy giờ bất bình.
Các tổ chức như Hội Khổng-học Việt-Nam hay Hội Chấn-hưng Tinh-thần Việt-Nam, hợp sức chủ động tư nhân hóa hoạt động mừng ngày giỗ Hùng Vương, cũng như yêu cầu Quốc hội VNCH xem xét bổ sung ngày lễ (Thư Kính ông Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa Việt Nam / DICH/22406) [1]. Tuy nhiên, yêu cầu này nhanh chóng bị Ngô Đình Diệm phủ quyết, khẳng định rằng Hùng Vương chỉ là “dã sử”, không phải “lịch sử” (Thư của ông Tổng giám Công vụ gởi Ông Tổng thơ ký Chánh phủ / Số CV/PC2, DICH/22406, NA2) [2].
Nếu cần phải giải thích cho sự kiên quyết này của họ Ngô, có lẽ vì giống như chính quyền cộng sản, Ngô Đình Diệm cũng có tham vọng xé mảnh phong tục tập quán phi lý tính khỏi bức tranh toàn cảnh của một Việt Nam hiện đại.
Điều này khiến cho hệ tư tưởng của Ngô Đình Diệm rơi vào một vị trí hết sức kỳ lạ.
Ông phản đối phong trào Tây hóa – song lại hỗ trợ truyền bá đạo Thiên Chúa một cách mạnh mẽ.
Ông chống cộng sản, nhưng lại muốn xây dựng danh tính chung cho nền tảng đạo đức và cá tính Việt Nam thông qua Khổng Giáo của Trung Quốc – quốc gia vừa trở thành đầu tàu của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á.
Năm 1963, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị ám sát, và chúng ta cũng không còn biết được liệu một “cá tính Việt Nam” đi theo tầm nhìn của Ngô Đình Diệm sẽ phát triển như thế nào ở quốc gia hình chữ S này.
Sau khi họ Ngô bị truất quyền, các lễ hội, ngày nghỉ quốc gia liên quan đến Hùng Vương tiếp tục trở thành một phần của các chiến dịch tuyên truyền của VNCH. Ngày lễ kỷ niệm được chính phủ quốc gia này chính thức trao cho Bộ Thông tin – Chiêu hồi quản lý, với mục tiêu lý thuyết nhằm thống nhất người dân cả hai miền chống lại chủ nghĩa cộng sản; đặc biệt nhằm kêu gọi người dân trong miền Nam chào đón, giúp đỡ người miền Bắc trốn chạy chủ nghĩa cộng sản.
***
Hình ảnh của Hùng Vương ngày nay được nhắc đến như người thật – việc thật, là những tổ phụ bằng xương bằng thịt của người Việt Nam cũng như đất nước Việt Nam. Hiện nay, giỗ tổ Hùng Vương luôn được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm, với sự tham gia của hàng loạt lãnh đạo cấp cao của nhà nước. Thay vì nhằm thể hiện nguồn gốc chung của người dân Việt Nam trên mọi miền đất nước, ngày nay, Hùng Vương có vẻ là một hình ảnh để mô tả sự liên tục phát triển của Việt Nam, tính chính danh và kế thừa của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc toàn quyền đại diện nhân dân.
Song, như chúng ta đã phân tích ở trên, các Vua Hùng cũng chỉ là huyền sử hư cấu mà thôi.
Chú thích:
[1][2]: Tư liệu của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh.
—
Từ khoá:
Vua Hùng: King Hùng (n, số ít), Hùng Kings (n, số nhiều)
ông tổ/người cha lập quốc: founding father (np)
ngày lễ quốc gia: national holiday (np)
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Democratic Republic of Vietnam (n)
Việt Nam Cộng hoà: Republic of Vietnam (n)
tuyên truyền: to propagate (v)
sự/việc tuyên truyền: propaganda (n)
sự thống nhất: unity (n)
thống nhất: to unite (v)