Xã hội dân sự và phát triển quốc gia - Kỳ 1: Vốn xã hội
Từ lúc chính thức ngồi vào ghế tổng bí thư, ông Tô Lâm đã có một số diễn ngôn đưa
Nếu dự luật dẫn độ được thông qua, Trung Quốc có thể dùng nó để trả thù các công dân Hong Kong và công dân nước ngoài làm việc hoặc du lịch ở Hong Kong. Nguy cơ này là có thật, và vì thế chúng ta cần tìm hiểu về dự luật này… trước khi quyết định phản đối nó.
Dự luật dẫn độ (mà người Hong Kong đang chống) là gì?
Như tên gọi, đây mới chỉ là dự luật, chưa phải là luật vì chưa được cơ quan lập pháp Hong Kong thông qua. Và nó là một dự luật của chính quyền Hong Kong (cho nên có người nói “luật dẫn độ của Trung Quốc” là nói sai).
Dự luật này mới được đưa ra hồi tháng 4 vừa qua. Mục đích của nó là sửa đổi hai đạo luật hiện hành đang điều chỉnh việc dẫn độ và hỗ trợ tư pháp giữa Hong Kong và các nơi khác: 1. Pháp lệnh về tội phạm đào tẩu; 2. Pháp lệnh về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự.
Pháp lệnh về tội phạm đào tẩu mà Hong Kong đang sử dụng hiện nay được thông qua ngay trước khi Hong Kong trở về với Trung Quốc (năm 1997). Pháp lệnh này quy định rõ là nó không áp dụng cho việc dẫn độ và tương trợ tư pháp với “chính quyền nhân dân trung ương hay chính quyền của bất kỳ địa phương nào của nước Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa”.
Bắc Kinh và chính quyền đặc khu Hong Kong hiện nay muốn sửa đổi pháp lệnh đó để có thể dẫn độ nghi phạm về các nước chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp với Hong Kong, trong đó có cả Trung Hoa lục địa. Và vì thế, dự luật dẫn độ ra đời.
Cho đến nay, Hong Kong đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với 20 nước, như Canada, Mỹ, Anh, Úc, New Zealand. Trong khu vực Đông Nam Á, Hong Kong có hiệp định tương trợ tư pháp với Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines. Danh sách 20 vùng tài phán này không có Trung Quốc và Việt Nam.
Vì sao người dân Hong Kong phản đối dự luật dẫn độ?
Lý do chủ yếu để người dân Hong Kong phản đối dự luật dẫn độ là vì lo sợ nó sẽ phá hoại nền tư pháp độc lập cũng như tự do của Hong Kong. Nhà nước CHND Trung Hoa vốn đầy rẫy vi phạm nhân quyền với một bộ máy công an gây ra hàng loạt cái chết trong đồn, một hệ thống xét xử hoàn toàn bị đảng cầm quyền thao túng, dẫn đến tình trạng oan sai, khiếu kiện và dân mang quan tài đi diễu phố (tương tự như Việt Nam). Không có mấy hy vọng về việc nghi phạm bị dẫn độ về Trung Quốc sẽ được hưởng đầy đủ quyền con người liên quan đến quá trình tố tụng.
Những năm gần đây, nhà nước Trung Quốc cũng đã tiến hành bắt cóc nhiều công dân của mình từ các nước khác về Trung Hoa lục địa chịu tội. Ví dụ hay được nhắc đến là Gui Minhai, một người bán sách, bị bắt cóc tại Thái Lan tháng 10/2015 và ba tháng sau “xuất hiện trở lại” trong trại giam ở Trung Quốc – một trường hợp rất giống với nhà báo Trương Duy Nhất của Việt Nam. Tháng 1/2016, Gui Minhai thậm chí còn thú tội trên truyền hình, khóc lóc nói rằng đã từng lái xe đụng chết một sinh viên 20 tuổi.
Cho nên, những người phản đối cũng lo sợ dự luật dẫn độ thực chất là “luật hoá việc bắt cóc”, tạo cơ sở pháp lý cho việc nhà nước bắt cóc công dân ở nước ngoài.
Theo dự luật, những tội phạm nào bị dẫn độ?
Dự luật xác định 37 nhóm tội có thể bị dẫn độ, mỗi nhóm bao gồm nhiều hành vi phạm tội khác nhau. Về căn bản thì các tội phạm sau đây sẽ bị dẫn độ: giết người, xúi giục và giúp người khác tự tử, hành hung, doạ giết, hiếp dâm và tấn công tình dục, bắt cóc, tham nhũng, rửa tiền, hải tặc và không tặc…
Các tội phạm bị dẫn độ đều là các tội bị xử ít nhất bảy năm tù, theo luật Hong Kong.
Dự luật quy định không dẫn độ trong trường hợp các vi phạm mang bản chất chính trị.
Như vậy, tội chính trị không thể bị dẫn độ, theo dự luật này?
Mặc dù dự luật quy định không dẫn độ trong trường hợp các vi phạm mang bản chất chính trị, nhưng nhìn lại lịch sử, việc hình sự hoá các hành động chính trị để biến chúng thành “tội hình sự”, biến vụ án chính trị thành vụ án hình sự, là điều mà các chính quyền Trung Quốc, Việt Nam vẫn thường xuyên làm. Giới hoạt động nhân quyền ở cả hai nước đều có thể bị buộc vào các tội hình sự thông thường và bị kết án như tù hình sự, trong khi hai chính quyền thường xuyên nói rằng ở nước mình không có tù nhân lương tâm, tù chính trị.
Chính quyền Hong Kong phản hồi ra sao với các quan điểm phản đối?
Chính quyền Hong Kong muốn thông qua dự luật dẫn độ, lấy lý do là không muốn Hong Kong trở thành nơi ẩn náu của tội phạm bị truy nã. Trong một thông cáo báo chí hôm 03/6, Văn phòng Chính quyền Đặc khu cho rằng “việc giao nộp tội phạm đào tẩu là một thông lệ quốc tế lâu đời nhằm chống các tội ác nghiêm trọng và ngăn chặn tội phạm đào thoát, trốn tránh công lý”.
Đối với những ý kiến lo ngại về tác động tiêu cực của luật dẫn độ đến tự do ngôn luận ở Hong Kong, chính quyền đặc khu đáp rằng luật này chỉ nhằm xử lý các tội nghiêm trọng và sẽ không xâm phạm đến quyền tự do ngôn luận, báo chí xuất bản của người dân Hong Kong.
Luật dẫn độ ảnh hưởng như thế nào đến người nước ngoài ở Hong Kong?
Theo luật pháp Trung Quốc, Trung Quốc có quyền xét xử bất kỳ người nước ngoài nào phạm tội chống lại “nhà nước CHND Trung Hoa hoặc công dân của nước CHND Trung Hoa” bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc, miễn là tội đó thuộc loại tội bị xử ít nhất ba năm tù và hành vi phạm pháp cũng bị coi là tội ở nơi mà nó diễn ra. Dĩ nhiên, việc bắt giữ, dẫn độ nghi phạm về Trung Quốc phải được sự đồng ý của nước sở tại.
Giới luật sư Hong Kong cho rằng nếu dự luật dẫn độ được thông qua, Trung Quốc có thể dùng nó để trả thù các công dân nước ngoài làm việc hoặc du lịch ở Hong Kong. Nhân viên người Mỹ, làm việc trong các tổ chức nhân quyền quốc tế có văn phòng ở Hong Kong như Ân xá Quốc tế (Amnesty International), có thể là nạn nhân sớm của luật dẫn độ. Nhà báo, học giả, nghiên cứu viên nước ngoài ở Hong Kong… cũng gặp rủi ro tương tự.
—
Từ khóa:
dẫn độ: extradition (n), to extradite (v)
yêu cầu dẫn độ: extradition request (np)
dự luật dẫn độ: proposed extradition law (np)
nghi phạm: suspect (n)
người phạm tội, tội phạm: offender (n)
người đào tẩu: fugitive (n)
pháp lệnh, sắc lệnh: ordinance (n)
tương trợ tư pháp: legal assistance (np)
hiệp định tương trợ tư pháp: mutual legal assistance agreement (np)
tính chất chính trị, bản chất chính trị: political nature (np)
nghĩa vụ, trách nhiệm, nhiệm vụ: onus (n)