Xã hội dân sự và phát triển quốc gia - Kỳ 1: Vốn xã hội
Từ lúc chính thức ngồi vào ghế tổng bí thư, ông Tô Lâm đã có một số diễn ngôn đưa
Bài viết của Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long tưởng nhớ một chính trị gia Thái Lan vừa qua đời đã làm dân mạng Việt Nam nổi giận. Trang Facebook của ông Long xuất hiện nhiều lời phàn nàn bằng tiếng Việt, cả lịch sự lẫn tục tĩu.
Nguyên nhân: Khi nói về chiến dịch đánh Khmer Đỏ ở Campuchia của quân đội Việt Nam năm 1978-79, ông Long đã viết là “Việt Nam xâm lược Campuchia” (Vietnam’s invasion of Cambodia) và gọi việc đóng quân của Việt Nam ở Campuchia sau đó là “sự chiếm đóng của Việt Nam” ở Campuchia (Vietnamese occupation).
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phải chính thức lên tiếng chỉ trích ông Long vì đã có “phát biểu phản ánh không khách quan thực tế lịch sử, gây tác động không tốt đến dư luận”.
Một phiên bản lịch sử khác: xâm lược và chiếm đóng?
Khi nhìn lướt qua các kênh thông tin phổ biến hàng đầu trên thế giới, có thể thấy rằng báo chí và dư luận quốc tế không ngại gọi các hành động của Việt Nam tại Campuchia năm 1978-79 là “xâm lược” (invasion) và “chiếm đóng” (occupation).
Trang bách khoa toàn thư Wikipedia về cuộc chiến năm 1978-79 thường là một trong những trang đầu tiên hiện lên khi người ta tìm kiếm thông tin trên Google về sự kiện này.Theo Wikipedia, cuộc tấn công của Việt Nam vào Campuchia năm 1978 là một cuộc “xâm lược hoàn toàn” (full scale invasion) và Việt Nam đã “chiếm đóng” (occupied) Campuchia sau đó.
Báo Time đưa tin nhân kỷ niệm 40 năm chính quyền Khmer Đỏ sụp đổ đầu năm 2019, cũng gọi cuộc tấn công hủy diệt Khmer Đỏ là “một cuộc xâm lược được Việt Nam hậu thuẫn” (Vietnam-backed invasion). Đưa tin cùng dịp, trang tin hàng đầu của khu vực bán đảo Ả-rập, Al Jazeera, giải thích rõ là Việt Nam bị Khmer Đỏ tấn công giết chóc dã man từ trước. Tuy nhiên, trang tin này vẫn gọi cuộc tấn công của Việt Nam là “xâm lược” (invasion).
Trang history.com – trang đáng tin cậy chuyên viết về lịch sử được nhiều người ưa đọc – giải thích khá đầy đủ bối cảnh lịch sử cuộc chiến và các tội ác của Khmer Đỏ. Tuy nhiên, trang này vẫn tường thuật là Việt Nam đã “xâm lược” (invaded – chia thì động từ invade của invasion) Campuchia.
Khi đưa tin về cái chết của tướng Lê Đức Anh hồi tháng 04/2019, các trang tin hàng đầu là Washington Post (Hoa Kỳ) và Japan Times (Nhật Bản) cũng gọi hành động của Việt Nam tại Campuchia là “xâm lược’’ và “chiếm đóng” (invaded and occupied).
Có thể nhận xét ở đây là việc dùng các động từ mạnh như “invasion” hay “occupation” để gọi các hành động của Việt Nam không nhất thiết phủ nhận động cơ tự vệ và thành tích giải cứu người dân Campuchia.
Đặc biệt, khi kèm theo việc dùng các động từ này là các giải thích nói rõ bối cảnh lịch sử và vai trò quyết định của Việt Nam trong công cuộc diệt trừ Khmer Đỏ.
Vấn đề của ông Lý Hiển Long trong bài viết khiến người Việt tức giận có lẽ không phải chỉ là vì ông dùng các động từ mạnh đó, mà còn vì ông không giải thích rõ hoàn cảnh lịch sử, và cũng không nói rõ thành tích chống Khmer Đỏ của Việt Nam.
Cũng đã có một số giải thích chi tiết mà dễ hiểu về “invasion” và “occupation” từ góc nhìn ngôn ngữ học. “Invasion” trong tiếng Anh có thể hiểu đơn thuần là việc đưa quân đội vào (địa phương nào đấy), trong khi “occupation” là việc đóng quân lại. Một giải thích khác tra cứu về nguyên gốc động từ “invade” cũng cho thấy từ này có nghĩa gốc đơn giản là đi vào.
Như vậy, các từ này trong tiếng Anh không nhất thiết mang sẵn nghĩa “xâm lược” và “chiếm đóng” với các hàm ý xấu hoặc có dã tâm, mà là những từ trung tính, thuần tuý mô tả thực tế.
Đó có lẽ là lý do các từ này được sử dụng rộng rãi trên báo chí quốc tế vốn có sẵn quan điểm trung dung về cuộc chiến này như đã kể trên. Chúng được sử dụng vì phản ánh đúng thực tế đưa quân vào và đóng quân, chứ không phải vì công luận quốc tế đang đưa ra phán xét gì về Việt Nam, hay đang bao che ủng hộ Khmer Đỏ.
Những người Việt Nam nào còn cảm thấy bức xúc với “invasion” và “occupation” thì có lẽ sẽ tìm thấy niềm an ủi nào đó ở một trang thông tin uy tín khác: bách khoa toàn thư Britannica của Anh quốc.
Britannica không dùng các động từ mạnh nói trên khi tường thuật về các hành động quân sự của Việt Nam ở Campuchia. Họ nói Việt Nam thực hiện “can thiệp” (intervention), và duy trì một chế độ “giám hộ” (tutelage) tại Campuchia cho đến năm 1989.
Luật quốc tế có thể giúp giải thích bản chất cuộc chiến 1978-79?
Những người không hài lòng với việc dùng “invasion”, “occupation” và thích dùng từ “intervention” như trang Britannica cũng sẽ tìm thấy nhiều cơ sở có lợi trong công pháp quốc tế.
Chuyện xác định một cách có cơ sở rằng một hành vi quân sự là “invasion” hay “intervention” thực ra là một mảng công pháp quốc tế đặc biệt thú vị được gọi là luật quốc tế về sử dụng vũ lực (international law on the use of force).
Trong mảng này, từ lâu các chuyên gia đã tranh luận về khái niệm can thiệp quân sự vì lý do nhân đạo (humanitarian intervention).
Luật quốc tế có các nguyên tắc nền tảng là các quốc gia phải tôn trọng chủ quyền quốc gia (sovereignty) của nhau, không được can thiệp vào nội bộ của nhau (non-intervention), và không dùng vũ lực với nhau (non-use of force); ngoại trừ hai trường hợp đặc biệt được cho phép ghi trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc là tự vệ (bên trong lãnh thổ quốc gia mình) và sử dụng vũ lực theo ủy quyền của Hội đồng Bảo an.
Can thiệp quân sự vì lý do nhân đạo là khái niệm khá mới, được xem là một trường hợp đặc biệt cho phép bỏ qua các nguyên tắc nền tảng nói trên: nếu vì lý do nhân đạo, để cứu người thoát khỏi thảm họa (bao gồm thảm họa diệt chủng) thì các nước phải được quyền đơn phương dùng vũ lực quân sự tấn công vào một nước khác. Tuy nhiên, trên nguyên tắc, đây không phải là căn cứ hợp pháp cho hành vi sử dụng vũ lực quân sự.
Luật quốc tế đến bây giờ vẫn còn khá bất định về chủ đề này. Giới chuyên gia thì vẫn chưa thống nhất được về mặt lý thuyết. Còn các chính phủ thì luôn cương quyết bảo vệ các nguyên tắc nền tảng về chủ quyền.
Tuy nhiên, kho tàng kiến thức và nghiên cứu luật học quốc tế vẫn có rất nhiều tài liệu có thể sử dụng để giải thích các hành động quân sự của Việt Nam ở Campuchia là “humanitarian intervention”.
Khi dùng khái niệm này để giải thích bản chất cuộc chiến 1978-79, các chuyên gia sẽ phải giải quyết các vấn đề nghiên cứu lịch sử khá hóc búa.
Mấu chốt để xác định một hành động “humanitarian intervention” trong luật quốc tế không chỉ nằm ở kết quả cuối cùng của việc dùng vũ lực quân sự, mà còn nằm ở chủ ý, động cơ thực chất của bên dùng vũ lực quân sự.
Làm sao để biết chắc chính phủ Việt Nam tấn công Campuchia thực sự là do họ muốn can thiệp vì lý do nhân đạo?
Trong luận văn cử nhân của mình, Vũ Minh Hoàng – một nhà sử học đang là nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ ở Đại học Cornell (Mỹ) – đã dùng các nguồn sử liệu đáng tin cậy và các nguồn thông tin hiếm có để tranh luận rằng, động cơ tấn công Campuchia của Việt Nam năm 1978 chủ yếu không phải là vì can thiệp nhân đạo, mà là vì lý do tự vệ.
Theo ông Vũ Minh Hoàng, giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam từ trước năm 1978 đã nhìn nhận rằng Khmer Đỏ đang cấu kết với Trung Quốc trong một âm mưu cùng chống phá Việt Nam. Việt Nam xác định là họ không muốn bị cùng lúc kẹp giữa hai mối hiểm họa quân sự: Trung Quốc ở phía Bắc và Campuchia ở phía Nam.
Thế nên, việc vô hiệu hóa hoàn toàn Khmer Đỏ tại Campuchia khi đó đã được Việt Nam xem là một mục tiêu cấp thiết vì nhu cầu tự bảo vệ.
Khi chọn lựa phương cách đạt được mục tiêu đó, giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã chọn việc tấn công phủ đầu vào tận lãnh thổ Campuchia trong một chiến dịch chớp nhoáng. Việc đóng quân lại lâu dài không nằm trong dự liệu ban đầu của Việt Nam.
Để ủng hộ luận điểm rằng các hành động tiến quân vào và chiếm đóng Campuchia của Việt Nam là hai bước khác nhau trong một chiến dịch “intervention/can thiệp quân sự” với một lý do chính đáng (nhân đạo), thì cần có các bằng chứng sử liệu khác để phản bác các phân tích nói trên của nhà sử học Vũ Minh Hoàng.
Nhưng vấn đề không chỉ là nghiên cứu lịch sử như thế nào. Có ý kiến cho rằng việc nghiên cứu áp dụng khái niệm “humanitarian intervention” theo công pháp quốc tế khá “động chạm”, “nhạy cảm” nếu nhìn từ quan điểm chính thức của nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay. Bởi vì Việt Nam vốn là một trong những nước tích cực bảo vệ các nguyên tắc chủ quyền chống lại các hành vi can thiệp từ nước ngoài.
Điều này có lẽ giải thích tại sao “intervention” không được dùng trong phần phát ngôn chính thức bằng tiếng Anh về vụ việc của Bộ Ngoại giao Việt Nam
Đó là một điều khá trớ trêu: Ta không thấy các nhà ngoại giao Việt Nam đả động gì đến một khái niệm công pháp quốc tế có tiềm năng giúp giải thích theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam về cuộc chiến năm 1978-79 ở Campuchia.
—
Từ khóa:
việc xâm lược/đưa quân vào: invasion (n)
việc đóng quân: occupation (n)
chủ quyền: sovereignty (n)
nạn diệt chủng: genocide (n)
can thiệp: intervention (n)
can thiệp nhân đạo: humanitarian intervention (np)
luật quốc tế: international law (np)
chính sách ngoại giao: foreign policy (np)