Xã hội dân sự và phát triển quốc gia - Kỳ 1: Vốn xã hội
Từ lúc chính thức ngồi vào ghế tổng bí thư, ông Tô Lâm đã có một số diễn ngôn đưa
Vào ngày quốc khánh 9/8/2019, Singapore được biết đến như một thành phố hiện đại bậc nhất thế giới, trung tâm tài chính – thương mại châu Á, điểm đến hàng đầu của du học sinh khắp thế giới, và là một tiếng nói có trọng lượng trên trường quốc tế.
Lãnh đạo lẫn người dân Việt Nam thường dẫn chứng Singapore như một hình mẫu cả về phát triển kinh tế lẫn quản trị quốc gia, còn Lý Quang Diệu được coi là một hình mẫu lãnh đạo.
Câu chuyện đó đã bắt đầu như thế nào?
Đây là Boat Quay, một địa điểm nổi tiếng ở Singapore, không những vì nó là trung tâm thương mại sầm uất nhất đảo quốc này, mà còn vì một bức tượng được đặt trang trọng bên bờ sông Singapore. Người đàn ông có được vị trí đặc biệt đó mang tước hiệu hiệp sĩ Hoàng gia Anh, bức tượng của ông cũng được cho là được đặt đúng nơi mà 200 năm trước đây ông đã đặt chân tới Singapore lần đầu tiên.
Ông là Stamford Raffles, người khai sinh ra Singapore hiện đại và đặt nền móng cho sự phát triển rực rỡ của thành bang này trong suốt 200 năm sau.
Nhưng lịch sử Singapore không bắt đầu vào năm 1819.
Đầu năm 2019, Stamford Raffles có thêm “bốn người bạn” đứng cùng vị trí này. Một trong số đó là bức tượng Sang Nila Utama (Sri Tri Buana), vị hoàng tử của đế chế Srivijaya, được cho là đã khai sinh ra vương quốc Singapura vào năm 1299. Srivijaya (650–1377) là một vương quốc gồm một phần Indonesia và Malaysia hiện nay, từng giao thương và chạm trán với vương quốc Champa.
Cái tên Singapura, trong tiếng Ấn Độ cổ Sanskrit, nghĩa là “thành phố sư tử”. Singa là “sư tử”, “pura” là “thành phố”. Sau này, không rõ vì lý do gì, nó được đọc chệch đi thành Singapore. Giới sử học vẫn chưa thống nhất được với nhau liệu Sang Nila Utama là một nhân vật lịch sử có thật hay chỉ là huyền thoại, mặc dù phần lịch sử Singapore từ thế kỷ XIV trở đi đã có khá nhiều sử liệu chứng minh.
Theo Bảo tàng Quốc gia Singapore, từ thế kỷ XIV tới thế kỷ XVIII, Singapure được cho là có quan hệ cả về thương mại lẫn chính trị với vương quốc Malay Archipelago, Ấn Độ, Trung Quốc, Xiêm (Siam), Việt Nam, và các vương quốc khác ở Đông Nam Á. Nó đã là một trong những thương cảng từ thế kỷ XIV chứ không hẳn là một làng chài ngủ quên như nhiều người trước đây đánh giá.
Trong thời kỳ trước 1819, Singapura từng là một phần của nhiều vương quốc khác nhau đến từ bán đảo Malacca (Malaysia ngày nay). Và trong lịch sử hiện đại, Singapura sẽ còn quay về với Malacca một lần nữa, nhưng ta sẽ nói đến sự kiện này sau.
Ngày 28/1/1819, khoảng 1.000 cư dân Singapore có một đoàn khách lạ, do vị hiệp sĩ người Anh Stamford Raffles dẫn đầu. Họ nhanh chóng tiếp kiến Temenggong Abdul Rahman, vị quan cai quản Singapore, và Tengku Long – con trai đầu của quốc vương cai trị đế chế Johor-Riau-Lingga khi đó. Đế chế này, đến lượt mình, lại đã thề trung thành với đế quốc Hà Lan, vốn đang bành trướng mạnh mẽ ở khu vực Đông Nam Á thời kỳ đó.
Stamford Raffles (1781 – 1826) khi đó là đại diện của Công ty Đông Ấn (East India Company), một công ty đặc biệt được Hoàng gia Anh trao sứ mệnh khai mở thuộc địa và các con đường giao thương ở khu vực Ấn Độ và Đông Nam Á.
Raffles nhanh chóng đạt được thoả thuận với chính quyền địa phương vào ngày 6/2/1819, cho phép Công ty Đông Ấn được thuê đất để thiết lập một cơ sở trao đổi hàng hoá ở Singapore. Về sau, đây được coi là điểm khởi phát của Singapore hiện đại. Bởi kể từ đây, lịch sử Singapore đã bước sang một chương hoàn toàn mới.
Dưới bàn tay của Raffles và Công ty Đông Ấn, Singapore nhanh chóng phát triển thành một thương cảng quan trọng trong khu vực, lấy tự do thương mại làm nền tảng. Năm 1822, tức là chỉ ba năm sau, giá trị trao đổi thương mại ở đây đã lên tới 8 triệu USD, tương đương 181 tỷ USD theo thời giá năm 2019.
Trải qua nhiều xung đột với Hà Lan, người Anh cuối cùng cũng giành được quyền kiểm soát toàn bộ Singapore, Malacca và Penang vào năm 1826, và đặt thủ đô của vùng đất được gọi là “British Settlements” này tại Singapore vào năm 1832. Vùng đất này thu hút hàng ngàn người Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều nơi khác tới định cư, làm ăn buôn bán.
Số phận của Singapore gắn bó chặt chẽ với lịch sử thương mại thế giới. Vào năm 1869, kênh đào Suez ở Ai Cập được khai thông, mở ra một trong những tuyến hàng hải quan trọng nhất trong lịch sử loài người, rút ngắn quãng đường từ châu Âu và Địa Trung Hải tới Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Singapore, nhờ nằm ở vị trí đắc địa bậc nhất của tuyến hàng hải này, đã hứng lấy dòng thương mại bùng nổ thời kỳ đó và trở thành một thương cảng sầm uất.
Năm 1922, Singapore trở thành căn cứ hải quân chính của Anh ở Đông Á. Một năm sau, có một đứa bé được sinh ra trong một gia đình gốc Hoa, vốn đã định cư ở Singapore từ nhiều thập niên trước đó. Đứa bé này về sau sẽ làm nên lịch sử và trở thành một trong những nhà lãnh đạo nổi bật nhất thế giới thế kỷ XX: Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew).
Năm 1941, giữa Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Nhật ném bom phá huỷ Singapore. Ngày 15/2/1942, Anh đầu hàng Nhật, trao Singapore cho lực lượng phát xít này. Nhật đổi tên Singapore thành Syonan-to (nghĩa là “Ánh sáng phương Nam”).
Cùng với việc Nhật thua trận và đầu hàng Đồng Minh năm 1945, Singapore quay trở về với sự cai trị của Anh. Lần này, Anh tách Singapore ra làm một thuộc địa riêng với lý do sắc dân gốc Hoa chiếm đa số ở Singapore sẽ xung đột với sắc dân Malay ở Malacca. Kết quả là Singapore trở thành một thuộc địa riêng rẽ của Anh và Liên bang Malaya được lập ra năm 1948.
Với chế độ lập hiến mới, người Singapore dần dần thành lập các đảng phái chính trị và chạy đua vào các vị trí trong Quốc hội. Cùng với phong trào giải phóng thuộc địa đang lên thời những năm 1950, giới hoạt động chính trị Singapore cũng tích cực đấu tranh và thương thảo với chính quyển Anh quốc để trở thành một quốc gia tự trị trong khối Thịnh vượng chung. Anh đồng ý với thoả thuận này vào năm 1958. Tổng tuyển cử được tổ chức vào tháng 5/1959 với đảng Hành động Nhân dân (PAP) của Lý Quang Diệu thắng áp đảo, giành được 43/51 ghế trong Quốc hội và có quyền lập chính phủ mới.
Lý Quang Diệu trở thành thủ tướng Singapore ngày 5/6/1959.
Năm 1963, Singapore cùng với các thuộc địa cũ của Anh là Liên bang Malaya, Borth Norneo (nay là Sabah) và Sarawak (nay là Đông Malaysia) lập thành Liên bang Malaysia. Điều này nằm trong toan tính của người Anh nhằm trút bỏ gánh nặng cai trị các thuộc địa này. Nó đồng thời cũng giúp hiện thực hoá cương lĩnh tranh cử của Lý Quang Diệu năm 1959 là gắn Singapore với bán đảo Malacca, bởi ông tin rằng một quốc đảo nhỏ như Singapore không thể tự mình sống sót được.
Nhưng cuộc hôn nhân này không tốt đẹp như ông Lý tưởng.
Mối quan hệ giữa chính quyền bang Singapore và chính quyền trung ương ở Malaysia nhanh chóng rơi vào bất hoà, khi đảng UMNO cầm quyền ở trung ương không giành nổi một ghế nào trong cuộc bầu cử ở Singapore – nơi phần đông là người Hoa. Lo sợ người Hoa ở Singapore sẽ đe doạ quyền lực của người Malay ở chính quyền liên bang, Thủ tướng Malaysia Tunku Abdul Rahman cảnh báo Lý Quang Diệu chớ xen vào chính trị liên bang, đổi lại, UMNO cũng sẽ không đụng tới chính trị tiểu bang. Trên thực tế, UMNO đã tổ chức những chiến dịch tuyên truyền chống lại PAP ở Singapore.
Ở Singapore, PAP cũng đối mặt với làn sóng chỉ trích của phe đối lập, vốn tách ra từ PAP, với đường lối chống việc hợp nhất với Liên bang Malaysia.
Căng thẳng sắc tộc giữa người Hoa và người Malay lên tới cao trào vào năm 1964, với hai cuộc xung đột, khiến ít nhất 36 người chết và 560 người bị thương. Đây được coi là những biến cố bạo lực tồi tệ nhất trong lịch sử Singapore hiện đại.
Ngày 9/8/1965, Singapore chính thức tách ra khỏi Liên bang Malaysia, theo yêu cầu của chính quyền liên bang.
Kể từ đây, đảo quốc Singapore phải tự mình xoay sở để sinh tồn.
(Còn tiếp)