Thư cuối tuần - 24/11/2024
Đây là Thư cuối tuần của Luật Khoa tạp chí. Thư tin này chỉ làm một việc đơn giản là
Bức tranh ảm đạm về thu nhập thấp, thất học và tệ nạn từ lâu trở thành khuôn định kiến khi một số người hình dung về người da đen. Có một lối lập luận phổ biến, nhưng đã sáo mòn, là “vì sao người da đen không phát triển được sau hơn 100 năm giải phóng nô lệ”. Lập luận kiểu này trải khắp mọi lĩnh vực, chẳng hạn “sao các họa sĩ vĩ đại toàn là nam giới”, “sao phụ nữ vẫn chưa chiếm lĩnh xã hội dẫu luật pháp đã công bằng”.
Đối với những ai chưa bao giờ ra khỏi biên giới để trải nghiệm cảm giác đi vào những khu phố của người da đen, thì nỗi sợ khi đi bộ trong các hẻm tối ở các khu phố mất an ninh tại Sài Gòn có lẽ là một liên tưởng phù hợp. Cảm giác sợ hãi/ ghê tởm của các blogger khi một người da đen lạ mặt xông đến xin thuốc lá có thể tìm thấy ở những góc tối tận cùng của các thành phố Việt Nam.
Tôi còn nhớ một cô gái Hà Nội sau khi bị cướp ở Sài Gòn đã đăng lên Facebook rằng “không bao giờ trở lại nữa, f*** Saigon!” Ác cảm rõ nét nhất khi người ta đến và nhìn từ bên ngoài. Người ở chính thành phố đó khó có thể phản ứng giống như vậy, mà ác cảm chỉ gói lại ở những khu vực và con người cụ thể nào đó. Cũng vậy, sự sợ hãi dành cho người da đen là một phóng chiếu từ ngoài, khi chúng ta nhìn từ một màu da khác.
Nhằm đóng góp cho cuộc thảo luận về chủng tộc ở Mỹ, tôi sẽ thử dùng logic của vòng luẩn quẩn đói nghèo (vicious circle of poverty).
Trong bài luận “Neighborhood and the intergenerational transmission of poverty” (Xóm giềng và sự lan truyền đói nghèo liên thế hệ), giáo sư xã hội học Lincoln Quillian của Đại học Northwestern (Mỹ) đã khái quát về cái vòng luẩn quẩn đói nghèo và sự cản trở những con người ở đây tiếp cận vốn xã hội và vươn lên trong cuộc sống.
Nói theo mô hình đã giản lược (kết hợp với các luận giải của giáo sư Yuval Harari), ở xuất phát điểm, trẻ em sinh ra ở các khu phố nghèo dễ bị tổn thương vì tiếp xúc trực tiếp với tệ nạn, bạo lực và có ít cơ hội tiếp cận giáo dục. Những bất lợi này tiếp nối ở thời kỳ trưởng thành, khi họ không có kỹ năng và học vấn để có thu nhập tốt. Con cái của những người này tiếp tục sống như bố mẹ chúng đã từng sống và tiếp xúc với những tiêu cực của khu vực.
Một thời gian dài, đóng khung nhận thức từ cộng đồng bên ngoài sẽ sinh ra định kiến về sự yếu kém có hệ thống của họ, cho rằng có sự liên hệ trực tiếp đến màu da và xuất thân. Điều này ngăn trở cả những người có năng lực và ý chí của khu phố cố gắng thoát ra.
Những vòng tròn luẩn quẩn như vậy cứ lặp đi lặp lại. Những cá nhân bứt phá thuộc về số ít. Sự thành đạt của họ cũng không đủ xóa bỏ định kiến có trước về cộng đồng của mình. Các chiến dịch tôn vinh nghệ sĩ da màu – những con người vĩ đại, cũng không đủ thuyết phục những người có đầu óc kỳ thị rằng nhân vô thập toàn, bất cứ cộng đồng nào cũng có nhiều bộ mặt. Sau một thời gian đủ dài, người ta dễ gắn bản chất người da đen với lười biếng, thô tục và tệ nạn.
Tôi lớn lên ở một vùng quê miền Tây Nam Bộ. Trong số hàng ngàn người trong khu xóm, tôi là người đầu tiên có bằng cử nhân (2019), trong khi xung quanh nhiều người chưa học hết cấp 2 và có ít nhất năm người mù chữ thế hệ 9X. Những tệ nạn và tiêu cực là không thể kể hết và có tính truyền thừa. Người Việt có tục ngữ phản ánh khá đúng về vòng luẩn quẩn đói nghèo, rằng:
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa”
Bỏ qua vấn đề chủng tộc, vòng luẩn quẩn là một tình trạng phổ quát ở các cộng đồng thiểu số, dễ tổn thương, nông thôn, ngoại biên khắp nơi trên thế giới.
Mỗi lúc xã hội xảy ra biến động sắc tộc, chúng ta lại thấy các bài viết trích dẫn những dữ liệu nhân khẩu học đáng ghê sợ liên quan đến người da đen, và kết luận (hoặc gợi ý) về sự tồi tệ của cả một sắc dân. Dữ liệu hẳn là không sai, nhưng dữ liệu thô chưa qua phân tích thì không có mấy giá trị.
Tỉ lệ người có thu nhập dưới 40.000 USD/năm (2005-2009, J. R. Logan. 2014) lần lượt là 12,9, 21,3 và 19,9 cho người da trắng, da đen và Hispanic. Không khó nhận ra người nghèo da đen chiếm đa số. Tại sao người da đen lại gắn chặt với đói nghèo? Vòng luẩn quẩn như trình bày ở trên là một mô hình hữu ích.
Người da đen đã có hơn 100 năm tự do? Đây là một hiểu nhầm rất lớn.
Kể từ khi được giải phóng khỏi đời sống nô lệ (trên giấy tờ) từ sau cuộc Nội chiến (1861 – 1865), một bộ phận lớn người da đen tiếp tục phải sống trong chế độ nô lệ cho đến đầu thế kỷ XX. Cộng đồng người da đen tiếp tục trải qua hết chính sách kỳ thị này tới văn hóa kỳ thị kia, từ phân cách chỗ ngồi trên xe buýt, cơ sở giáo dục – khu uống nước công cộng – cửa hàng – nhà vệ sinh chia theo màu da dẫn đến Phong trào Dân Quyền (Civil Right Movement) thập niên 1950-60. Đến năm 1965, Mỹ mới ra luật cấm những rào cản kỹ thuật của các tiểu bang vốn được dùng để ngăn người da đen đi bỏ phiếu.
Đến tận năm 1983, Michael Jackson mới là một trong những ca sĩ da màu đầu tiên được chấp nhận chiếu trên kênh âm nhạc MTV, vốn có truyền thống thuộc về người da trắng. Sự gỡ bỏ các rào cản là chưa đủ lâu cho tái tạo xã hội và tiếp cận nguồn lực. Quá trình gỡ bỏ đó vẫn đang tiếp tục. Xoá bỏ ký ức nô lệ, vùng vẫy thoát khỏi những bất công dai dẳng và nỗ lực tự khẳng định bản sắc không thể là việc một sớm một chiều.
Một khi đã quen với lập luận tân tự do (neo-liberal) rằng “mỗi người tự chịu trách nhiệm cho số phận của mình”, người ta dễ dàng miệt thị những người thất bại. Nhưng nếu không vội chụp mũ, người ta có thể nhận thấy sự mong manh và bế tắc là tình trạng chung của kiếp người. Chúng ta đã bứt phá bao nhiêu kể từ lúc được sinh ra, hay cuộc sống chúng ta đơn thuần là sự phản ánh lại môi trường chính ta sinh trưởng?
Khả năng tiếp cận nguồn lực của mỗi cộng đồng luôn gắn với đặc trưng lịch sử của họ. Bình đẳng trước pháp luật (nếu có) không có nghĩa là bình đẳng về cơ hội phát triển. Việc để tâm tới những cá biệt này có thể giúp đám đông bớt hà khắc hơn trong sự đánh giá của mình, và những người làm chính sách có cách tiếp cận hiệu quả hơn để giảm bất bình đẳng xã hội và phá bỏ thế luẩn quẩn không hồi kết.