Xã hội dân sự và phát triển quốc gia - Kỳ 1: Vốn xã hội
Từ lúc chính thức ngồi vào ghế tổng bí thư, ông Tô Lâm đã có một số diễn ngôn đưa
Rằng khác thì cũng thật là khác, mà quen thì cũng thật là quen.
Thể chế chính trị của Trung Quốc và Việt Nam lâu nay vẫn được xem như anh em song sinh: Trung Quốc thế nào thì Việt Nam thế ấy. Hệ thống bầu cử của hai nước cũng được đánh giá tương tự.
Tìm hiểu về bầu cử tại Trung Quốc vì thế có thể giúp người đọc hiểu thêm phần nào đó về tình hình tại Việt Nam.
Các vấn đề thường được nêu ra trong bầu cử tại Việt Nam đều xuất hiện ở Trung Quốc, như các thủ thuật “hiệp thương” để loại bỏ ứng viên độc lập, việc một người trong gia đình đại diện cho cả nhà bỏ phiếu, hay sự xuất hiện của các ứng viên có chức năng “bình hoa di động” làm màu cho cuộc bầu cử.
Tuy vậy, hình thức bầu cử tại hai quốc gia này vẫn có nhiều điểm khác biệt quan trọng.
Ở Trung Quốc, cơ quan tương ứng với Quốc hội là “Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc” (National People’s Congress – NPC), thường được gọi tắt là “Toàn quốc Nhân đại” hay “Nhân đại” (人大). Với khoảng 3.000 thành viên, đây được xem là cơ quan nghị viện lớn nhất thế giới. Tất cả các chức danh lãnh đạo chủ chốt nhất của nhà nước, từ chủ tịch, phó chủ tịch nước đến thủ tướng, chánh án Tòa án Tối cao, viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao… đều được cơ quan này chọn ra.
Hệ thống “nhân đại” của Trung Quốc có năm cấp từ trên xuống: trung ương -> tỉnh -> thành -> huyện -> hương.
Các đại biểu cấp trung ương, tức Quốc hội, không phải do dân trực tiếp bầu ra mà được lựa chọn gián tiếp. Họ được “nhân đại” ở cấp dưới bầu, và đại biểu cấp đó lại do cấp thấp hơn bầu ra. Chỉ có đại biểu hai cấp thấp nhất, huyện và hương, là được cử tri trực tiếp bỏ phiếu chọn.
Trong khi đó, tại Việt Nam, đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân được chọn ra bằng hình thức bầu trực tiếp.
Bầu cử – quá trình để tất cả người dân đưa ra lựa chọn – vốn thường có yếu tố bất định. Bầu cử càng dân chủ, càng tự do, càng nhiều lựa chọn, kết quả lại càng khó đoán trước. Mặt khác, mọi thể chế toàn trị đều cần đảm bảo quyền lực tập trung về tay mình.
Chính quyền Trung Quốc làm thế nào để vừa tổ chức bầu cử dân chủ – theo định nghĩa của họ, vừa đảm bảo kết quả cuối cùng theo đúng ý muốn?
Trong nghiên cứu “Playing by the rules: How local authorities engineer victory in direct congressional elections in China” được đăng trên Journal of Contemporary China năm 2017, tác giả Zhongyuan Wang, giảng viên ngành khoa học chính trị thuộc Đại học Phúc Đán, Trung Quốc, thông qua khảo sát thực địa đã chỉ ra những chiến lược và cách thức kiểm soát bầu cử của chính quyền trung ương đối với các cuộc bầu cử tại địa phương.
Người viết liệt kê một số điểm đáng chú ý trong nghiên cứu trên.
Theo Luật Bầu cử của Trung Quốc, gần như ai cũng có thể ra ứng cử trong các cuộc bầu cử tại địa phương.
Luật quy định các ứng viên có thể do những chính đảng giới thiệu, gọi là “tổ chức đề cử”, hoặc do nhóm nhiều hơn 10 cử tri hay đại biểu khác giới thiệu, được gọi là “liên danh đề cử”.
Các ứng viên của “tổ chức đề cử” tuyệt đại đa số đều do Đảng Cộng sản kiểm soát. Có một điểm cần đề cập là trên danh nghĩa, Trung Quốc hiện có tất cả chín đảng phái chính trị. Trên thực tế, ngoài Đảng Cộng sản nắm quyền tuyệt đối, tám đảng còn lại đóng vai trò như các tổ chức mặt trận, phối hợp với chính quyền thực thi các chính sách được ban ra. Vì vậy, các ứng viên do tổ chức đề cử, bất kể là đảng viên nơi đâu, về bản chất đều là người của chính quyền.
“Liên danh đề cử” là con đường duy nhất khả dĩ để các ứng viên độc lập tham gia. Tuy nhiên, chính quyền cũng kiểm soát phần lớn cuộc chơi, biến con đường này thành một cái ngõ hẹp.
Với yêu cầu chỉ cần 10 người đề cử, đảng cầm quyền dễ dàng tạo ra những ứng viên độc lập trên danh nghĩa. Trong nhiều trường hợp, các ứng viên ban đầu được tổ chức đề cử sẽ được chuyển thành liên danh đề cử nhằm đảm bảo tỷ lệ ứng viên phù hợp, giúp tạo ra hình ảnh cuộc bầu cử công khai, công bằng và có cạnh tranh thực sự.
Các ứng viên thật sự không có liên hệ gì với chính quyền phần lớn bị đánh rớt ngay từ vòng đăng ký: họ không đáp ứng tỷ lệ cơ cấu (proportion structure).
Tỷ lệ cơ cấu là tiêu chuẩn được đưa ra nhằm đảm bảo các nhóm dân cư khác nhau đều có đại diện được bầu. Những sắc tộc khác nhau, các nhóm tôn giáo, những người thuộc các “chính đảng” khác, phụ nữ, hay đại diện các ngành nghề như công nhân, nông dân, trí thức… đều được giao tỷ lệ nhất định tham gia ứng cử.
Cơ cấu này là rào cản đầu tiên được áp dụng linh hoạt để loại bỏ các ứng viên tự do. Nghiên cứu dẫn trường hợp một luật sư nam tại Thâm Quyến đã phải rút lui khi chính quyền địa phương thông báo khu vực đó chỉ có suất dành cho ứng viên nữ.
Rào cản thứ hai là một quy trình tương tự như ở Việt Nam, được gọi là “uẩn nhưỡng” (cất rượu) và “hiệp thương”. Nó được thực hiện theo phương pháp “ba lên, ba xuống” (three ups, three downs).
Danh sách các ứng viên sẽ được ủy ban bầu cử rà soát một lần (lên), gửi cho các nhóm cử tri đại diện họp thảo luận cho ý kiến (xuống). Kết quả thảo luận được tập hợp lại gửi cho cơ quan phụ trách bầu cử (lên) và thông báo cho tất cả cử tri để nhận phản hồi (xuống). Phản hồi được tập hợp lần nữa trình cho ủy ban bầu cử để chốt danh sách chính thức (lên), và cuối cùng công khai kết quả (xuống).
Các cuộc họp lên lên xuống xuống này vừa là công cụ để loại những ứng viên độc lập “không phù hợp”, vừa là diễn đàn để những ứng viên của chính quyền tiếp cận và tranh thủ sự ủng hộ của cử tri.
Việc kiểm soát cử tri được thực hiện từ trước khi tổ chức bầu cử. Thông qua các cuộc khảo sát, chính quyền nắm được số lượng cử tri, ý định bỏ phiếu của họ, từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức bầu cử sao cho có lợi nhất cho ứng viên của mình.
Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là phân chia khu vực bầu cử, hay “gerrymandering” (vẽ lại bản đồ khu vực bầu cử).
Lợi dụng các quy định phức tạp và lắt léo của luật, các quan chức phụ trách bầu cử thường tùy tiện tách hay nhập các khu vực. Như trường hợp một huyện ở tỉnh Quý Châu, khi nhận thấy ứng viên của đảng có thể không đạt đủ đa số phiếu như yêu cầu, các quan chức nơi đây đã gom thêm các khu dân cư khác vào tạo thành đơn vị bầu cử mới.
Một trường hợp khác là khi một giáo sư đại học ở Bắc Kinh tự ra ứng cử. Không muốn ứng viên độc lập này trúng cử, chính quyền đã tách đơn vị bầu cử là trường đại học ra làm hai, một dành cho cán bộ nhân viên của trường, một dành cho sinh viên. Bằng cách đó, các sinh viên không thể bầu cho giáo sư của mình.
Những khu vực cách xa nhau về địa lý cũng có thể bị gom lại thành một đơn vị bầu cử, như các cơ quan công sở thuộc cùng hệ thống được gom lại để đảm bảo ứng viên, thường là quan chức đứng đầu cơ quan, đạt đủ số phiếu.
Vẽ lại bản đồ khu vực bầu cử không chỉ xuất hiện ở Trung Quốc mà còn là công cụ ưa thích và gây rất nhiều tranh cãi tại Mỹ (đọc thêm về “gerrymandering” tại Mỹ tại đây).
Ngoài ra, các cử tri được khuyến khích đăng ký bầu cử theo đơn vị công tác. Bằng cách đó, họ dễ bị kiểm soát và thuyết phục bầu theo chủ trương của cơ quan mình làm việc. Chính quyền chỉ cần làm việc với những người đứng đầu các cơ quan – lúc này đóng vai trò như “cò phiếu” – đảm bảo kết quả cuối cùng như ý muốn.
Luật Bầu cử của Trung Quốc cho phép việc bầu hộ (proxy voting). Một người có thể ủy quyền cho người khác bỏ phiếu giúp mình. Mỗi người được thay mặt tối đa ba người bỏ phiếu. Nghĩa là, một người có thể bầu tối đa bốn phiếu (một cho mình và ba cho người khác).
Quy định bầu cử trực tiếp đại biểu là “hai lần quá bán” – hơn một nửa số lượng cử tri đã đăng ký tham gia bỏ phiếu, và người trúng cử đạt được hơn một nửa trong tổng số phiếu đó.
Với quy định bỏ phiếu hộ, trên lý thuyết, chính quyền chỉ cần 1/8 số cử tri đã đăng ký xuất hiện, hay 12,5% cử tri là đủ để thực hiện cuộc bầu cử đúng luật. Đây là con số cử tri đã đăng ký (registered voters). Nếu tính tất cả những cử tri đủ điều kiện (eligible voters) nhưng không đăng ký, tỷ lệ này còn thấp hơn nữa.
Trên thực tế, chính quyền địa phương thường tập trung nguồn lực vận động những người đứng đầu các đơn vị công tác và các chủ hộ gia đình. Nhờ vậy, họ có thể huy động lượng phiếu bầu hợp lệ với chi phí thấp nhất.
Các phương tiện truyền thông ở Trung Quốc luôn nằm dưới sự kiểm soát toàn diện và chặt chẽ của chính quyền. Trong các cuộc bầu cử, toàn bộ hệ thống báo chí truyền hình lẫn công cụ mạng xã hội đều được vận động để thực hiện công tác tuyên truyền.
Các thông điệp tuyên truyền thường có ba phần, có thể gọi tắt là “tam ca”. Một là ca ngợi hệ thống bầu cử dưới sự lãnh đạo của đảng, khẳng định chỉ có đảng mới có thể giúp người dân thực sự làm chủ. Hai là phổ biến các kiến thức về luật và quy trình bầu cử để cử tri thực hiện đúng cách. Cuối cùng là ca ngợi tính ưu việt của chế độ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” (socialist democracy).
Ngoài “tam ca”, truyền thông còn có “tam cấm”. Một là cấm đưa tin về hoạt động của các ứng viên độc lập hay các chiến dịch tranh cử cá nhân. Hai là cấm bàn đến các chủ đề nhạy cảm. Và ba là cấm đưa tin tiêu cực về bầu cử.
Một chiến thuật tinh tế được sử dụng rộng rãi trong các kỳ bầu cử ở Trung Quốc là việc cho xuất hiện các “bình hoa di động”: những ứng viên đóng vai trò làm nền cho các ứng viên thực sự.
Những người này được mời, hay thậm chí bị gây áp lực buộc phải ra ứng cử. Họ thường là cán bộ ở cấp thấp trong tổ chức, hoặc người có rất ít kinh nghiệm, không có thành tích gì nổi bật, hay chỉ đơn giản là tên có nhiều nét hơn và sẽ bị xếp dưới cùng trong danh sách (tương tự như tên nằm cuối bảng chữ cái của tiếng Việt).
Những trường hợp thực tế như việc một cán bộ tầm tầm ở huyện ghi danh “cạnh tranh” với lãnh đạo huyện đó, hay một công nhân trẻ tuổi ứng cử cùng đơn vị với cảnh sát trưởng của khu vực.
Bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc thường dùng các trường hợp này để nhấn mạnh tính ưu việt của thể chế. Họ cho rằng đó là bằng chứng cho thấy bất kỳ ai, kể cả “người thường”, cũng có thể cạnh tranh với quan chức lãnh đạo, trái ngược với bầu cử của phương Tây, được họ mô tả chỉ là cuộc chơi độc quyền của giới nhà giàu.
Không phải mọi kết quả của cuộc bầu cử đều diễn ra theo ý muốn của chính quyền.
Luật Bầu cử năm 2010 quy định cử tri có thể bầu hay loại bỏ ứng viên trong danh sách, hoặc bầu cho một ứng viên bất kỳ nào khác.
Vào kỳ bầu cử đại biểu năm 2001 – 2002, theo báo cáo, trên cả nước có hơn 8.000 ứng viên được cử tri tự ghi thêm vào (write-in candidates) và đạt đủ số phiếu để trúng cử.
Các cuộc bầu cử địa phương còn thể trở nên vô hiệu khi không có đủ số lượng cử tri tham gia. Một báo cáo được dẫn ra trong nghiên cứu cho biết trong kỳ bầu cử năm 2006 – 2007, có 1,7% các cuộc bầu cử ở cấp hương và 1,3% bầu cử cấp huyện vô hiệu vì không có đủ cử tri bỏ phiếu.
Nghiên cứu chỉ ra vấn đề của chính quyền khi phải cân bằng giữa chuyện kiểm soát kết quả bầu cử và làm sao để bầu cử còn có ý nghĩa. Càng tăng cường các biện pháp cấm đoán, kiểm soát, người dân càng không thấy có lý do tham gia bầu cử. Chính quyền vì vậy sẽ mất đi tính chính danh có được từ các cuộc bầu cử giả hiệu đó.
Bầu cử đại biểu cấp địa phương tại Trung Quốc không phải là cuộc bầu cử duy nhất mà người dân được trực tiếp bỏ phiếu quyết định. Tại các thôn làng, trong hơn 30 năm qua, người dân đã được trực tiếp bầu chọn ra trưởng thôn và ủy ban quản lý thôn. Nhiều người đánh giá đây mới là hình thức bầu cử dân chủ nhất đang tồn tại ở Trung Quốc, với các ứng viên độc lập thật sự và kết quả thường không nằm trong sự kiểm soát của chính quyền.