Xã hội dân sự và phát triển quốc gia - Kỳ 1: Vốn xã hội
Từ lúc chính thức ngồi vào ghế tổng bí thư, ông Tô Lâm đã có một số diễn ngôn đưa
Và trở thành một nhân chứng có lòng trắc ẩn.
Tôi gặp cuốn sách “Witnessing Torture” (Chứng kiến tra tấn) vào đầu đợt dịch năm ngoái, khi Đại học Cambridge quyết định mở kho sách giáo khoa của họ cho mọi người đọc và tải về miễn phí, như một cách hỗ trợ cộng đồng học thuật trên toàn cầu. [1] Cuốn sách này gây chú ý với tôi vì nó là thứ tôi không tưởng tượng được đến bao giờ mới có thể xuất hiện ở Việt Nam, đặc biệt là như một cuốn sách giáo khoa.
Tôi chỉ có ý định mở nó ra sau vụ việc của quân nhân Trần Đức Đô, 19 tuổi, chết không rõ nguyên do trong doanh trại quân đội, nơi anh đã tình nguyện tham gia như một cách thực thi nghĩa vụ công dân. [2] Làn sóng phẫn nộ ào lên cao chưa từng thấy, rồi tắt đi rất nhanh. Đâu đó, người ta chép miệng bảo với nhau rằng, ừ thì bạo lực trong quân đội cũng là chuyện bình thường ấy mà. Kỷ luật nó phải thế.
Từ khi nào, và bằng cách nào, chúng ta chấp nhận các hành vi xâm phạm nhân quyền trắng trợn trở thành lẽ thường như vậy?
Ngày nay, tra tấn là hành vi phạm pháp ở hầu hết các quốc gia – 132 nước đã ký Công ước Liên Hiệp Quốc về Chống Tra tấn (1984). Nhưng chỉ tính riêng trong năm 2016, tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International), chuyên giám sát tình hình nhân quyền toàn cầu, đã ghi nhận các trường hợp tra tấn tại 122 nước khác nhau, bất kể thể chế. [3]
Ở Việt Nam, báo cáo hàng năm của các tổ chức theo dõi nhân quyền như Amnesty, Bộ Ngoại giao Mỹ, [4] hay Project 88 [5] cũng ghi nhận các trường hợp tra tấn dưới nhiều hình thức, trong nhiều không gian, với nhiều thủ đoạn. Những vụ việc thì vẫn được kể, nhưng chúng dường như chỉ chạm được đến một cộng đồng nhỏ những người quan tâm đến nhân quyền. [6]
Số đông thường nhìn các vụ tra tấn như chuyện xảy ra trong một căn phòng tối (dark chamber) – trong tương quan giữa nạn nhân và kẻ tra tấn. Đây cũng là cách nhìn phổ biến của truyền thông, điện ảnh, và của cả các nghiên cứu. Nó bỏ qua bối cảnh mà sự việc diễn ra. Một trong những mục tiêu của cuốn sách “Witnessing Torture” là đặt căn phòng tối vào trong bối cảnh của nó.
Mười bốn tiểu luận trong cuốn sách mời gọi người đọc nhìn việc tra tấn trong không gian mà chúng diễn ra: lịch sử của chúng, thể chế chính trị nuôi dưỡng chúng, hệ thống cho phép chúng xảy ra, những quan niệm xã hội dung dưỡng chúng, bao gồm việc biện minh cho bạo lực và giải trí bằng bạo lực. Tác giả của các tiểu luận này rất đa dạng, từ những nạn nhân sống sót sau tra tấn tại nhiều châu lục, các nhà hoạt động, cho đến những nhà nghiên cứu, giảng dạy trong lĩnh vực nhân quyền.
Tiểu luận để lại ấn tượng sâu sắc nhất với tôi là của tác giả Madelaine Hron, một giáo sư về tra tấn. Bạn có thể giật mình, nhưng tôi tất nhiên không có ý nói Hron là chuyên gia tra tấn người khác (dù trong tiểu luận, bà có chỉ ra nhiều điểm tương đồng giữa việc dạy học với tra tấn). Bà là chuyên gia nghiên cứu và giảng dạy về nhân quyền, với những công trình đáng chú ý về việc tường thuật/ tái hiện (representation) tra tấn trong truyền thông và điện ảnh. Những kiến giải của bà có thể giúp rọi sáng vào hiện tượng tầm thường hóa bạo lực/ tra tấn ngầm ẩn trong quan niệm xã hội ngày nay.
Tôi mạnh dạn đoán rằng phần lớn chúng ta đều giống như những sinh viên của giáo sư Hron, chỉ hình dung về tra tấn qua những bộ phim hành động Hollywood. Trong các bộ phim ấy, những nhân vật chính thường có chung một lòng kiên cường, dù trải qua tra tấn nhưng vẫn không khuất phục, và sau cùng thì luôn tăng thêm sức mạnh. Các cảnh tra tấn thường được mô tả như một trải nghiệm mang tính chuyển hóa trong quá trình phát triển năng lực và nhân cách của vị anh hùng. Lâu dần, tra tấn trở thành một phần không thể thiếu trong các kịch bản phim hành động. “Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi trong bộ phim ‘Die Another Day’ (2002), James Bond bị tra tấn ngay trong phần mở đầu, khi chúng ta mới bắt đầu nhai bắp rang bơ”, tác giả viết.
Cách tái hiện tra tấn như một trải nghiệm cần thiết và hiệu quả của các bộ phim này không giúp gì cho việc hiểu về tra tấn trong đời thực – một hành vi man rợ, một sự chà đạp nhân quyền mang tính hệ thống và để lại những hậu quả nghiêm trọng kéo dài cho nạn nhân.
Nhìn một cách tổng thể, khi những lời kể của nạn nhân tra tấn trong đời thực chỉ tiếp cận đến một nhóm đối tượng nhỏ, thì các bộ phim hành động bom tấn chính là thứ định hình quan niệm về tra tấn cho số đông. Ở một khía cạnh nào đó, chúng góp phần tầm thường hóa cái ác.
Nhưng để một người đi từ việc xem những cảnh tra tấn trên phim ảnh (thường sẽ có kết thúc có hậu) đến việc đọc những trải nghiệm đau đớn của các nạn nhân tra tấn thực thụ (như trong cuốn sách này) là một bước nhảy dài đòi hỏi nhiều nỗ lực.
Mỗi ngày, chúng ta bị bao phủ bởi những chuyện đau thương trên khắp thế giới thông qua biển tin tức: thảm họa, dịch bệnh, xả súng, cháy nhà, chết người. Kết quả là, phản ứng cảm xúc của chúng ta phần nào bị tê liệt đi như một cách để sinh tồn. Các nhà nghiên cứu gọi hiện tượng này là sự mệt mỏi của lòng trắc ẩn (compassion fatigue). Chúng ta không muốn nghe nói về đau thương thêm nữa, và đó sẽ là một thảm họa cho những nỗ lực bảo vệ nhân quyền trên toàn thế giới.
Giáo sư Madelaine Hron cho rằng giáo dục về nhân quyền trước hết phải tìm cách giúp người học vượt qua sự mệt mỏi này, học cách tưởng tượng về nỗi đau của người khác. Trí tưởng tượng, theo bà, là chìa khóa để chúng ta tiếp tục nuôi dưỡng lòng trắc ẩn, nhất là đối với những trải nghiệm như tra tấn, vốn thường vượt ngoài không gian tư duy của một người bình thường.
Có một ý niệm được nhắc đến xuyên suốt mười bốn tiểu luận trong cuốn sách “Witnessing Torture”, đó là khả năng tiếp nối và chữa lành của việc làm chứng. Ngay trong lời nói đầu, biên tập viên của cuốn sách đã nêu ra hai cách mà ta có thể làm nhân chứng (witness) cho một việc gì đó, từ khía cạnh thực tiễn và từ khía cạnh đạo đức.
Vì tra tấn thường xảy ra trong những không gian kín, những người có thể làm chứng cho sự việc (witness) chỉ có thể là kẻ tra tấn và nạn nhân. Trong một số trường hợp còn có bên thứ ba chứng kiến, nhưng con số này không nhiều. Những người sống sót dám lên tiếng là những nhân chứng quan trọng để thúc đẩy quá trình xóa bỏ tra tấn, nhưng bản thân họ lại phải trải qua rất nhiều sang chấn, nhất là khi phải kể lại những việc đã xảy ra với mình.
Mặt khác, bất kỳ ai trong chúng ta, bằng việc tin vào những lời kể của các nạn nhân, cũng có thể trở thành nhân chứng cho những nỗi đau của họ (bearing witness). Các nhân chứng tinh thần này được chứng minh là có thể giúp thúc đẩy quá trình chữa lành của nạn nhân, và tiếp nối cuộc hành trình chống lại những hành vi chà đạp nhân phẩm, nhân quyền.
Aristotle đã khái quát hóa quá trình này thành bốn điều kiện của lòng trắc ẩn. Đó là (1) tin rằng một tai họa đã xảy ra với ai đó; (2) tin rằng người khác cũng có phẩm giá như chính mình; (3) tin rằng nạn nhân không chịu trách nhiệm cho những tai họa xảy ra với họ; và (4), tin rằng chúng ta cũng có thể gặp phải tai họa đó. [7]
Tại sao chúng ta lại phải quan tâm đến nhân quyền? Lời kêu gọi này dựa trên một nguyên tắc căn bản thường được gọi nôm na là “có qua có lại” – những thứ có thể xảy ra đối với một người thì cũng có thể xảy ra với những người khác. Chúng ta đấu tranh hôm nay cho những nạn nhân của bạo lực, của tra tấn, là cách để ngăn cho mình và những người xung quanh gặp phải tai họa tương tự trong tương lai.
Chọn cách chép miệng bỏ qua, hay chấp nhận cho những hành vi xâm phạm nhân quyền diễn ra là góp phần nuôi dưỡng bầu không khí sợ hãi. Trong bầu không khí đó, không ai an toàn cả. Trở thành một nhân chứng với lòng trắc ẩn, dù đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, mới là cách sống trọn vẹn.
Bạn có thể trở thành một nhân chứng như vậy bằng việc đọc cuốn sách “Witnessing Torture”. Sách có thể được tải về tại đây.
Bài viết nằm trong mục Đọc sách cùng Đoan Trang, đăng vào tối thứ Ba hàng tuần.
Bài cộng tác xin gửi cho chúng tôi tại đây. Ban biên tập Luật Khoa tạp chí, bao gồm Đoan Trang, rất mong chờ bài viết của bạn.
1. Moore, A. S., & Swanson, E. (2018). Witnessing Torture: Perspectives of Torture Survivors and Human Rights Workers (Palgrave Studies in Life Writing) (1st ed. 2018 ed.). Palgrave Macmillan.
2. Chính, Y. K. (2021, July 1). Vụ quân nhân tử vong: Mô típ hành xử quen thuộc của chính quyền với những cái chết bất minh. Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2021/07/vu-quan-nhan-tu-vong-mo-tip-hanh-xu-quen-thuoc-cua-chinh-quyen-voi-nhung-cai-chet-bat-minh/
3. Amnesty International, Amnesty International Report 2015/16: The State of the World’s Human Rights (London: Amnesty International Ltd., 2016), available online at https:// www.amnesty.org/en/latest/research/2016/02/annual-report-201516/
4. Nguyen, L. (2021, April 20). Sống ở Việt Nam muốn biết chuyện Việt Nam? Thử đọc báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ. Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2021/04/song-o-viet-nam-muon-biet-chuyen-viet-nam-thu-doc-bao-cao-nhan-quyen-cua-bo-ngoai-giao-my/
5. Linh, T. H. (2020, November 28). Một báo cáo không thể bỏ qua về vấn đề tra tấn tù nhân ở Việt Nam. Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2020/11/mot-bao-cao-khong-the-bo-qua-ve-van-de-tra-tan-tu-nhan-o-viet-nam/
6. Nguyễn, V. (2020, May 13). 8 màn tra tấn có thể bạn chưa biết. Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2020/05/8-man-tra-tan-co-the-ban-chua-biet/
7. Aristotle. Rhetoric. Trans. Rhys Roberts. Internet Classics Archive.