Thư cuối tuần - 24/11/2024
Đây là Thư cuối tuần của Luật Khoa tạp chí. Thư tin này chỉ làm một việc đơn giản là
Những bức ảnh quý giá lưu lại một thế kỷ tôn giáo phụng sự cộng đồng.
Vào lúc bạn đọc bài viết này, có hơn 1.000 tình nguyện viên là tín đồ, tăng ni, tu sĩ của các tôn giáo đang túc trực bên những bệnh nhân COVID-19 tại TP. Hồ Chí Minh.
100 năm qua, tôn giáo và người dân như hai bàn tay, hễ nơi nào cất tiếng kêu gọi trợ giúp thì ở bên kia đều sẵn lòng giúp đỡ. Từ khi chiến tranh đến lúc hòa bình, tinh thần đó chưa bao giờ thay đổi.
100 năm qua, tôn giáo Việt Nam đã đi từ chỗ sở hữu rất nhiều cơ sở, tổ chức cứu tế xã hội, trường học, bệnh viện đến giai đoạn phải thu hẹp đáng kể hoạt động của mình sau năm 1954 ở miền Bắc và sau năm 1975 ở miền Nam. Tuy vậy, các hoạt động xã hội vẫn luôn là tôn chỉ quan trọng mà các tôn giáo không ngừng thúc đẩy.
Trong bài viết này, bạn có thể nhìn lại các hoạt động xã hội của các tổ chức tôn giáo trong 100 năm qua. Trong một số giai đoạn, do tư liệu thu thập vẫn chưa đầy đủ, một số tôn giáo không được nhắc đến, nhưng điều đó không có nghĩa là họ không có các hoạt động xã hội vào thời điểm đó.
Vào thời điểm này, Giáo hội Công giáo sau 300 năm truyền giáo ở Việt Nam đã có các cơ sở cứu tế đồ sộ như bệnh viện, trại tế bần ở nhiều tỉnh, thành.
Về giáo dục, vào đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã từ bỏ nền giáo dục nho học, chuyển sang tân học. Kỳ thi Hương cuối cùng của Việt Nam kết thúc vào năm 1917. Trước đó, vào năm 1882, chính quyền thuộc địa đã mở các trường học công lập đầu tiên. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo đã mở trường học trước cả chính quyền thuộc địa.
Những trường học đầu tiên do Công giáo tổ chức là trường Bá-đa-lộc, Sài Gòn (lập năm 1861, cải tổ năm 1865), trường Thánh Giu-se, Mỹ Tho (1867), trường Taberd Sài Gòn (lập năm 1874, cải tổ năm 1889), trường Đức Cha Phước (Puginier) tại Hà Nội (1897), trường Pellerin, Huế (1904), trường thánh Giu-se, Hải Phòng (1906) v.v. [3]
Từ đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa ngừng tài trợ cho các trường học Công giáo do chính sách “tách quyền lực của nhà thờ ra khỏi nhà nước”. Bất chấp điều đó, Giáo hội Công giáo vẫn đứng vững trong lĩnh vực giáo dục, trở thành tôn giáo hoạt động giáo dục mạnh mẽ nhất.
Các hoạt động giáo dục xã hội vào lúc này chỉ quan sát được ở Công giáo. Các tổ chức Phật giáo trong khi đó tập trung vào giáo dục tự viện cho các tăng, ni. [4]
Đây là thời kỳ hình thành các tôn giáo mới ở miền Nam, trong đó Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài là hai tôn giáo phát triển nhanh chóng và bắt đầu có những hoạt động xã hội.
Theo Phạm Đình Khiêm, từ năm 1941 đến 1942, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã mở 58 nhà thương, dung nạp 3.058 giường bệnh, phần lớn là chữa trị cho người nghèo. Giáo hội có 25 viện tế bần cho người già, khuyết tật, 177 cô nhi viện, nhà dạy cho trẻ câm điếc, tất cả dung nạp 10.793 trẻ em. Ở Huế, có bệnh viện lao do các nữ tu Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn đảm nhận. Ở Sài Gòn, có bệnh viện tâm thần chăm sóc khoảng 300 bệnh nhân. Số phòng phát thuốc là 112 cơ sở, trong năm 1941 đã giúp đỡ cho 2.225.391 người đến xin. Số trường tư thục Công giáo là 1.779 trường. [5]
Đây cũng là thời kỳ đất nước chao đảo vì những biến cố chính trị: chiến tranh Đông Dương giữa Nhật và Pháp, Việt Nam tuyên bố độc lập ở Hà Nội, đau thương hơn cả là nạn đói thảm khốc vào đầu năm 1945 tại miền Bắc và miền Trung. [6]
Công giáo đã cứu tế nhiệt thành trong nạn đói đầu năm 1945. Theo Phạm Đình Khiêm, Giáo hoàng Pi-ô XII đã trích 1 triệu quan để cứu tế cho các nạn nhân của nạn đói nhưng có lẽ vì các biến cố chính trị nên số tiền này không đến được Việt Nam. [7]
Các hoạt động xã hội của Phật giáo trong giai đoạn này chưa được ghi chép đầy đủ. Tuy nhiên, có nhiều câu chuyện được kể lại về việc Phật giáo giúp đỡ người dân. Ví dụ như Hòa thượng Thích Quảng Độ từng kể thầy ông - Hòa thượng Thích Đức Hải - là người ra thị xã Hà Đông lập hội cứu tế giúp đỡ nhiều người bị đói, nhờ quan tổng đốc Hà Đông là Hồ Đắc Điềm can thiệp với người Nhật để lấy gạo cứu đói. [8]
Ở miền Tây, Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ đã tổ chức các chuyến khuyến nông ở nhiều tỉnh, khuyến khích người dân trồng trọt, củng cố kinh tế. [9]
Theo Thích Nhất Hạnh, sau khi mặt trận kháng chiến tại Hà Nội vỡ, Hòa thượng Thích Tố Liên đã lập Hội Việt Nam Phật Giáo vào năm 1949. Sau đó, hội đã thành lập một cô nhi viện cho khoảng 160 em. [10] Theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đây là cơ sở từ thiện xã hội được thành lập đầu tiên của Phật giáo. [11]
Năm 1952, hội xây dựng hai trường tư thục trung học tại Hà Nội, trường Khuông Việt cho nam sinh và trường Vạn Hạnh cho nữ sinh. [12]
Từ sau năm 1954, tại miền Bắc, Phật giáo cũng rơi vào hoàn cảnh giống như Công giáo. Họ bị chính quyền mới lần lượt tịch thu các cơ sở hoạt động xã hội, cô nhi viện, trường học v.v.
Theo số liệu của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, sau khi Hiệp định Genève 1954 được công bố, tính đến tháng 10/1955, có 676.348 tín đồ Công giáo, 209.132 tín đồ Phật giáo và 1.041 tín đồ Tin Lành đã di cư vào miền Nam trong chiến dịch “Sang phía Tự do”. [13]
Trong giai đoạn này, Công giáo đã tổ chức các trại tạm cư, phân phát lương thực và nhu yếu phẩm. Công giáo có vai trò lớn trong việc hỗ trợ các gia đình di cư thực hiện tái định cư. [14] Rất nhiều giáo xứ mới được lập ra cho người di cư trong giai đoạn này như An Hòa (Đà Nẵng), Ba Đông (Đồng Nai), Loan Lý (Huế), Lực Điền (Bình Dương), v.v. Trạm y tế, trường học, nhà cửa được dựng lên xung quanh các nhà thờ của giáo xứ.
Cuộc chiến dai dẳng và tàn khốc giữa hai miền đã đẩy xã hội vào cảnh đau thương. Khi một quân nhân ngã xuống, một em bé có thể trở nên mồ côi. Một cuộc tập kích nổ ra là có thêm hàng nghìn người tị nạn chạy vào các đô thị. Các hoạt động xã hội của tôn giáo trong giai đoạn này phần nào xoa dịu được nỗi đau chiến tranh đè nặng lên người dân.
Về phía Phật giáo, cho đến năm 1971, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có 26 cơ sở bảo trợ trẻ em (9 cô nhi viện, 14 ký nhi viện, 3 cô ký nhi viện), 5 trạm y tế và 2 bệnh viện. [15]
Ni sư Diệu Ninh là một trong những ni sư quan tâm đến công tác cứu tế xã hội. Năm 1966, bà tổ chức cứu trợ hàng nghìn nạn nhân bão lụt ở Châu Đốc, Long Xuyên và Đồng Tháp. Năm 1972, bà mở Ký Nhi Viện Huệ Quang để săn sóc trẻ em, tổ chức cứu lụt ở Quảng Nam. [16]
Thích Nhất Hạnh cũng là một trong những nhà sư gây ảnh hưởng với các sáng kiến hoạt động xã hội khi ấy. Cuối năm 1963, ông từ Mỹ trở về miền Nam, rồi sớm bắt tay vào dự án Làng Tự Nguyện - một dự án có phần lãng mạn nhằm đào tạo ra các thanh niên hoạt động xã hội để phát triển khu vực nông thôn. Ông cũng là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, nơi có các Phật tử dấn thân vào hoạt động xã hội.
Năm 1969, theo thống kê của Giáo hội Công giáo Việt Nam, Công giáo sở hữu 48 bệnh viện, 35 viện dưỡng lão, 8 trại phong và 159 phòng phát thuốc. [17]
Công giáo còn có các tổ chức, hiệp hội cứu tế chuyên nghiệp đã tham gia trợ giúp người dân bất kể tôn giáo. Các tổ chức có đóng góp lớn là Catholic Relief Services (hơn 50% hỗ trợ của Mỹ được thực hiện qua tổ chức này), [18] Caritas Việt Nam (chính thức hoạt động vào năm 1965, có 267 cô nhi viện, 66 lớp học may, và 69 phòng khám y tế, tổ chức cứu trợ lương thực, quần áo, thuốc men), Caritas International (có các tổ chức do Dòng Bác Ái Vinh Sơn điều hành để hỗ trợ trẻ em như Caritas Daycare Centre, Caritas Social Centre, và Caritas Nutritional Centre, và Mái Ấm Nữ Vương Hoà Bình).
Về giáo dục, mặc dù lúc này Phật giáo và các tôn giáo khác cũng bắt đầu tham gia hoạt động giáo dục, tuy nhiên Công giáo vẫn chiếm ưu thế với quá trình hoạt động lâu đời, số lượng cơ sở trường học đồ sộ và khả năng tổ chức tốt.
Theo Minh Thạnh, Công giáo có hệ thống trường học đa dạng, các trường thuộc giáo xứ có chất lượng trung bình, các trường của các dòng tu chuyên về giáo dục có chất lượng cao, và ở giữa là trường của các dòng tu không chuyên về giáo dục. [19]
Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, Phật giáo có hệ thống trường trung, tiểu học Bồ Đề với học phí thấp dành cho các gia đình khó khăn. Năm 1970, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có 173 trường Bồ Đề và mẫu giáo Kiều Đàm. [20]
Từ sau 30/4/1975, cùng với không khí thù hằn của chế độ mới đối với các tôn giáo, các cơ sở cứu tế xã hội, giáo dục của các tôn giáo miền Nam đã bị chính quyền lần lượt cưỡng chiếm hoặc mượn để sử dụng. Việc tịch biên các cơ sở này đã tạo thêm những bất ổn trong xã hội đang xáo trộn khi đó, đẩy rất nhiều tu sĩ, tăng, ni, nhân viên của các cơ sở hoạt động xã hội vào tình cảnh không biết đi đâu về đâu.
Không chỉ Công giáo được chính quyền tuyên truyền là công cụ của Mỹ, Ngụy, Phật giáo nổi tiếng với những hoạt động đấu tranh chống lại chế độ Ngô Đình Diệm cũng cùng chung số phận. Các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài cũng phải đóng cửa các cơ sở tôn giáo, đến cuối những năm 1990 mới được hoạt động trở lại.
Kể từ sau khi chiến tranh kết thúc, 45 năm qua, các tôn giáo vẫn tiếp tục các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, quy mô hoạt động của họ đã nhỏ hơn rất nhiều so với trước năm 1975 do chính sách hạn chế của nhà nước.
Đến đầu những năm 2000, tổ chức tôn giáo mới được phép mở trường mầm non. Cho đến nay, phạm vi hoạt động giáo dục của tổ chức tôn giáo chỉ dừng lại ở cấp học này.
Việt Nam đã có nhiều trường học tư thục, bệnh viện tư nhân với chi phí cao dành cho tầng lớp trung lưu. Trong khi đó, tổ chức tôn giáo có thể đáp ứng nhu cầu của người nghèo trong giáo dục và khám chữa bệnh thì vẫn chưa được nhà nước cho phép.
Hiện nay, các mái ấm nuôi dưỡng trẻ mồ côi, khuyết tật, nhà dưỡng lão, cơ sở từ thiện, v.v. vẫn tiếp tục được các tổ chức tôn giáo duy trì. [21]
Chú thích
1. Phạm Đình Khiêm. (1950). Hành động xã hội của Giáo hội qua các thời đại và ở Việt Nam. An Phong.
2. TGP Sài Gòn. (2009, July 23). Chân dung linh mục Việt Nam: Đức cha Jean Cassaigne. http://giaoxuvnparis.org/bai-viet/164-%C3%90uc-cha-cassaigne-sanh-giam-muc-nguoi-cui-viet-nam.html
3. Xem [1]
4. Giáo hội Phật giáo Việt Nam. (2015, January 21). Giáo dục tôn giáo hướng ra xã hội ở Sài Gòn trước năm 1975. https://phatgiao.org.vn/giao-duc-ton-giao-huong-ra-xa-hoi-o-sai-gon-truoc-nam-1975-d16992.html#
5. Xem [1]
6. Báo Lao Động. (2015, January 12). 70 năm nạn đói lịch sử năm Ất Dậu: Hơn 2 triệu người chết chỉ trong nửa năm. https://laodong.vn/xa-hoi/70-nam-nan-doi-lich-su-nam-at-dau-hon-2-trieu-nguoi-chet-chi-trong-nua-nam-287596.bld
7. Xem [1]
8. Luật Khoa. (2020, March 1). Hòa thượng Thích Quảng Độ: Một đời tranh đấu. https://www.luatkhoa.org/2020/03/hoa-thuong-thich-quang-do-mot-doi-tranh-dau/
9. Ban trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo. (2015, June 23). Giới thiệu. https://phatgiaohoahao.org.vn/news/?ID=60&CatID=7
10. Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh). (1992). Việt Nam Phật giáo Sử luận, trang 737. Thư Viện Hoa Sen. https://thuvienhoasen.org/images/file/3k6Xwp1G0QgQABk-/viet-nam-phat-giao-su-luan.pdf
11. Thích Thiện Hoa. (1971). Hình ảnh về văn hóa giáo dục, 50 năm chấn hưng Phật giáo. Quảng Đức. https://web.archive.org/web/20121116072825/http://quangduc.com/vietnam/50namchanhungpg2-02.html#_ftn2
12. Xem [9]
13. Nghiên cứu quốc tế, bài dịch. (2014, May 6). #155: Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc và vai trò của họ tại Việt Nam CH, 1954–1959. Nghiên Cứu Quốc Tế. http://nghiencuuquocte.org/2014/05/06/bac-di-cu/
14. Nghiên cứu quốc tế, bài dịch. (2020, May 5). Hoạt động cứu trợ của Công Giáo miền Nam giai đoạn 1954–1975. Nghiên Cứu Quốc Tế. http://nghiencuuquocte.org/2020/05/05/hoat-dong-cuu-tro-cong-giao-mien-nam-1954-1975/#_ftnref20
15. Xem [11]
16. Xem [10], trang 713, 714.
17. Tôn giáo và Dân tộc. (2014). Việt Nam sắp có đại học Thiên Chúa giáo đầu tiên. http://tongiaovadantoc.com/c1041/20140724145922674/viet-nam-sap-co-dai-hoc-thien-chua-giao-dau-tien.htm
18. Xem [13]
19. Xem [4]
20. Xem [10]
21. Giáo xứ Tân Việt. (2019). Địa chỉ các mái ấm và nhà tình thương. http://giaoxutanviet.com/dia-chi-cac-mai-am-va-nha-tinh-thuong/