Những ngã rẽ của chủ nghĩa xã hội - Kỳ 8: Con đường nào cho Việt Nam?

Những ngã rẽ của chủ nghĩa xã hội - Kỳ 8: Con đường nào cho Việt Nam?
Ảnh: Canva.

Khi nhắc đến sự phát triển của một quốc gia, mức sống cao thường được xem là thước đo tiêu biểu.

Thực tế, ở các nước có truyền thống dân chủ xã hội mạnh như Đức, Thụy Điển và Đan Mạch, người dân có mức sống cao đi kèm với hàng loạt yếu tố khác như chính quyền minh bạch, hệ thống giáo dục và an sinh xã hội tiên tiến, cùng một xã hội tương đối bình đẳng.

Trong khi đó, Việt Nam và Trung Quốc có mức thu nhập trung bình, phải đối mặt với nhiều vấn nạn như bất bình đẳng xã hội, tình trạng tham nhũng nghiêm trọng trong khi chất lượng hệ thống phúc lợi xã hội còn yếu.

Triều Tiên hiện là một trong những quốc gia nghèo đói và tham nhũng nhất thế giới. Nước này thường xuyên phải đối mặt với vấn nạn thiếu hụt lương thực, thiếu điện, cơ sở hạ tầng yếu kém; chưa kể, tăng trưởng và thương mại còn phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc. [1] 

Nguyên nhân nào đã dẫn đến những sự khác biệt lớn lao này giữa các quốc gia? Yếu tố nào quyết định một quốc gia sẽ trở nên thịnh vượng hay nghèo đói?

Daron Acemoglu, James Robinson và Simon Johnson, chủ nhân của giải Nobel Kinh tế năm 2024 cho rằng vấn đề nằm ở thể chế.

💡
Kỳ 1 | Kỳ 2 | Kỳ 3 | Kỳ 4 | Kỳ 5 | Kỳ 6 | Kỳ 7

Thể chế: Luật chơi quyết định sự phát triển

Thể chế được hiểu đơn giản là luật chơi của xã hội, bao gồm các quy tắc được thiết lập để điều chỉnh cách thức các cá nhân tương tác với nhau. [2]

Thể chế được chia thành hai loại chính: thể chế kinh tế và thể chế chính trị, mỗi loại tùy theo tính chất lại có thể phân thành “tước đoạt” (extractive) hoặc “dung hợp” (inclusive).

Trong các thể chế tước đoạt, quyền lực chính trị và kinh tế tập trung vào một nhóm có quyền thế và phần lớn người dân không thể tiếp cận các cơ hội kinh tế xã hội và tài nguyên của quốc gia.

Ngược lại, thể chế dung hợp cho phép phân bổ nguồn lực chính trị và kinh tế rộng rãi, tạo điều kiện để mọi người tự do theo đuổi lợi ích và đam mê của mình, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội thông qua đổi mới và cạnh tranh. 

Cụ thể, thể chế kinh tế bao gồm: 

  • Thể chế kinh tế tước đoạt: Thiếu pháp luật và trật tự; quyền sở hữu không được đảm bảo; các quy định và rào cản gia nhập ngăn cản sự vận hành của thị trường và tạo ra một sân chơi bất công.
  • Thể chế kinh tế dung hợp: Quyền tư hữu được bảo vệ, pháp luật và trật tự được duy trì; thị trường cạnh tranh vận hành với sự hỗ trợ của nhà nước; doanh nghiệp mới dễ dàng gia nhập thị trường; hợp đồng được tôn trọng; cơ hội giáo dục rộng mở cho phần lớn công dân.

Thể chế chính trị chia thành:

  • Thể chế chính trị tước đoạt: Quyền lực tập trung vào một thiểu số, thiếu cơ chế kiểm soát và đối trọng quyền lực và không có thượng tôn pháp luật.
  • Thể chế chính trị dung hợp: Đa nguyên chính trị, khuyến khích sự tham gia rộng rãi của người dân; có các cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực; đảm bảo thượng tôn pháp luật. Nhà nước có thể duy trì mức độ tập trung quyền lực nhất định để giữ vững pháp luật và trật tự. [3]

Theo lý thuyết của Daron Acemoglu, James Robinson và Simon Johnson, các nước dân chủ châu Âu trở nên thịnh vượng nhờ phát triển cả thể chế kinh tế và chính trị bao trùm. Về mặt kinh tế, các quốc gia này duy trì một môi trường kinh doanh tự do, đồng thời áp dụng các chính sách điều tiết nhằm giảm bớt bất bình đẳng và đảm bảo quyền lợi của người lao động. Về mặt chính trị, họ thiết lập nền dân chủ nghị viện, xây dựng nhà nước pháp quyền và khuyến khích người dân tích cực tham gia vào quy trình chính trị, từ đó thúc đẩy sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính phủ.

Ngược lại, dưới sự cai trị độc đoán của gia tộc họ Kim qua ba thế hệ, Triều Tiên đã duy trì sự kết hợp của các thể chế kinh tế và chính trị tước đoạt trong hơn 70 năm. Hệ quả là đất nước này trở thành một trong những quốc gia nghèo đói, tham nhũng và thiếu tự do nhất trên thế giới. 

Ảnh vệ tinh ban đêm cho thấy Triều Tiên chìm trong bóng tối, trong khi Hàn Quốc rực rỡ ánh đèn. Acemoglu và Robinson dùng hình ảnh này để minh họa cho sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa Triều Tiên (thể chế tước đoạt) và Hàn Quốc (thể chế dung hợp). Nguồn ảnh: Earth Science & Remote Sensing Unity, NASA Johnson Space Center.

Trung Quốc và Việt Nam nằm giữa hai thái cực này. Kể từ khi đổi mới và mở cửa nền kinh tế, tức là phát triển các thể chế kinh tế dung hợp, cả hai quốc gia đã đạt được những thành tựu đáng kể về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, hai nước vẫn duy trì một thể chế chính trị mang tính tước đoạt, gây ra nhiều hậu quả tiêu cực.

Mặc dù mang danh là các quốc gia xã hội chủ nghĩa, sự kết hợp giữa chế độ chính trị độc tài và nền kinh tế thị trường nửa vời đã tạo ra một mô hình phát triển pha trộn giữa “chủ nghĩa tư bản nhà nước” (state capitalism) và “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (crony capitalism). [4][5] Mô hình này không chỉ cho phép nhà nước can thiệp sâu vào thị trường, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự cấu kết giữa các nhóm đầu sỏ chính trị và tài phiệt kinh tế. Hệ quả là tham nhũng gia tăng và hiệu quả kinh tế suy giảm.

Các vấn đề kinh tế - xã hội mà cả Việt Nam và Trung Quốc đang phải đối mặt hiện nay là bất bình đẳng gia tăng, khoảng cách giàu nghèo lớn; tham nhũng tràn lan và quản trị công yếu kém; tình trạng nợ xấu và hoạt động kém hiệu quả của nhiều tập đoàn nhà nước; tranh chấp đất đai giữa người dân và chính quyền; ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, v.v. [6][7][8][9],,,

Các nước dân chủ châu Âu như Đức, Thụy Điển, Hà Lan và Na Uy cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, chẳng hạn như tình trạng già hóa dân số và áp lực lên hệ thống an sinh xã hội, sự gia tăng của chủ nghĩa dân túy và phân cực chính trị hay các vấn đề liên quan đến người nhập cư. 

Một trong những thách thức lớn đối với mô hình nhà nước phúc lợi là làm sao duy trì sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và giảm bất bình đẳng xã hội. Điều này đôi khi mâu thuẫn, bởi các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chẳng hạn như cắt giảm thuế cho doanh nghiệp hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân, có thể dẫn đến sự gia tăng chênh lệch thu nhập. 

Việc yêu cầu những người có thu nhập cao đóng góp nhiều hơn vào ngân sách nhà nước, cùng với các chính sách tái phân phối có lợi cho nhóm yếu thế, có thể làm giảm động lực làm việc và khiến tầng lớp trung lưu và giới tinh hoa bất mãn. 

Tuy nhiên, hệ thống chính trị dân chủ với tính minh bạch, khả năng đối thoại và trách nhiệm giải trình cao có thể giúp các quốc gia này vượt qua những thách thức trên một cách hiệu quả và bền vững.

Tư tưởng của Karl Marx và Eduard Bernstein qua lăng kính thể chế

Trong lịch sử triết học, các nhà tư tưởng lớn đã đưa ra những tầm nhìn khác nhau về cách xây dựng một xã hội thịnh vượng và công bằng.

Khi xem xét tư tưởng của Marx và Bernstein dưới lăng kính kinh tế học thể chế của Acemoglu và Robinson, ta có thể rút ra điều gì?

Trong “Tuyên ngôn cộng sản, Marx và Engels đã đề xuất các thể chế có tính tước đoạt, bao gồm kêu gọi thực hiện chuyên chính vô sản, xóa bỏ sở hữu tư nhân về phương tiện sản xuất, thay thế bằng sở hữu công, loại bỏ thị trường tự do, tước đoạt quyền sở hữu ruộng đất, xóa bỏ quyền thừa kế, tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc doanh hoạt động độc quyền, tịch thu tài sản của những người lưu vong và chống đối. [10]

Mặc dù mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội bình đẳng và chấm dứt tình trạng người bóc lột người, nhưng khi áp dụng vào thực tế ở một số quốc gia, các biện pháp này đã dẫn đến việc tước đoạt quyền tự do cá nhân, quyền tư hữu, quyền tự do kinh doanh và lựa chọn dịch vụ tín dụng. Đồng thời, chúng tập trung quyền lực vào nhà nước và đảng cầm quyền, gây ra tình trạng lạm quyền, quan liêu, thiếu dân chủ, gia tăng áp bức và kiểm soát tư tưởng.

Lịch sử cho thấy “nền chuyên chính vô sản” đã dần trở thành “nền chuyên chính của Đảng Cộng sản.”

Câu hỏi đặt ra là: liệu xã hội lý tưởng mà Marx mô tả trong “Tuyên ngôn cộng sản”, nơi “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” có thể trở thành hiện thực hay không, khi các phương pháp ông đề xuất lại mang tính tước đoạt và đi ngược lại các giá trị tự do? [11]

Ngược lại, Eduard Bernstein, người khởi xướng trường phái xét lại, ủng hộ việc phát triển các thể chế dung hợp. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng dân chủ, bao gồm quyền bỏ phiếu và tham gia chính trị rộng rãi cho giai cấp công nhân và tầng lớp lao động, qua đó thúc đẩy một xã hội công bằng và nhân bản hơn mà không cần đến cách mạng bạo lực. Bernstein cũng ủng hộ các chính sách phúc lợi như giáo dục công, chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm thất nghiệp, nhằm giảm bất bình đẳng mà vẫn duy trì quyền tư hữu và nền kinh tế thị trường.

Mộ của Eduard Bernstein tại Berlin, Đức. Trong ảnh, Tiến sĩ Klaus-Jürgen Scherer, cựu giám đốc Diễn đàn Văn hóa của Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD), phát biểu tưởng niệm nhân 90 năm ngày mất của Bernstein. Từ năm 2016, nơi an nghỉ của ông được công nhận là phần mộ danh dự tại Berlin, tấm phù điêu màu cam cạnh mộ là biểu tượng tôn vinh vai trò quan trọng của Bernstein trong lịch sử. Nguồn ảnh: spd-tempelhof-schoeneberg.de.

Việt Nam và những bước ngoặt lịch sử

Vào giữa thế kỷ 18, Montesquieu viết tác phẩm "Tinh thần pháp luật", nhấn mạnh sự cần thiết phải phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh độc lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhằm ngăn chặn sự lạm quyền và bảo vệ tự do cá nhân. Cùng thời gian này, Lê Quý Đôn, học giả dưới triều Lê mạt, viết tác phẩm "Kiến văn tiểu lục", nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tu dưỡng bản thân theo đạo đức phong kiến Nho gia. Trước hệ thống quan lại mục nát và hủ lại thời bấy giờ, ông khuyên răn người làm quan phải “giữ lòng thanh liêm, bỏ hết dục vọng, cư xử thung dung, phong vị thanh nhàn, dạo quanh trên con đường tiết nghĩa [...] bản thân được trời đất phù hộ, gia đình không ma quỷ dòm nom,” đồng thời nhắc nhở người quân tử phải biết kính sợ ba điều: “sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân.” [12]

Vào giữa thế kỷ 19, hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến đến bờ biển Nhật Bản, yêu cầu nước này mở cửa để giao thương. Nhật Bản sau đó phải chấp nhận các yêu sách thương mại từ phương Tây và ký nhiều hiệp ước bất bình đẳng với các cường quốc. Đối mặt với tình thế bức bách, từ năm 1868, nước này bắt đầu thực hiện Minh Trị Duy Tân nhằm hiện đại hóa đất nước. Nhật Bản xóa bỏ hệ thống đẳng cấp phong kiến, đồng thời cử rất nhiều học giả, quan chức và thanh niên sang các nước phương Tây để học hỏi về khoa học, kỹ thuật, quản lý hành chính và quân sự. Các chính sách cải cách thức thời giúp nước này từ một xã hội phong kiến lạc hậu nhanh chóng vươn lên trở thành một cường quốc công nghiệp - quân sự hiện đại, có ảnh hưởng lớn ở khu vực Đông Á và trên thế giới. 

Trong khi đó, tại An Nam, triều đình nhà Nguyễn cũng đối mặt với những áp lực tương tự. Lo lắng trước vận mệnh của đất nước, Nguyễn Trường Tộ (1830–1871) đã gửi nhiều đề xuất cải cách đến triều đình Huế, bao gồm áp dụng khoa học kỹ thuật mới, phát triển công thương nghiệp, cải cách giáo dục và hệ thống thuế, hiện đại hóa quân đội. Ông cũng cổ súy việc sử dụng chữ Quốc ngữ, thành lập ủy ban ghi nhận các sáng kiến từ người dân và đề xuất gửi thanh niên sang các nước châu Âu để học tập và nghiên cứu. [13] 

Tuy nhiên, các đề xuất canh tân của ông đã bị các thế lực bảo thủ trong triều vua Tự Đức ngăn cản. Thay vì thực hiện cải cách và khéo léo tìm cách giao hảo với Pháp, triều Nguyễn lại xem Pháp là giống người man di, khinh bỉ, đuổi các nhà truyền giáo và dùng binh lực đối đầu với Pháp. [14] Kết quả là An Nam thất bại thảm hại, phải cắt nhượng đất đai, mất dần độc lập, và cuối cùng trở thành xứ bảo hộ của Pháp.

Khi Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra vào năm 1917, Hjalmar Branting - “cha đẻ của chủ nghĩa xã hội tại Thụy Điển” - đã phê phán phái Bolshevik do Lenin lãnh đạo vì cướp chính quyền. Branting cũng chỉ trích chủ nghĩa cộng sản vì chủ thuyết này đi ngược lại các giá trị dân chủ, đồng thời dẫn dắt Thụy Điển đi theo con đường dân chủ hóa và thực hiện các cải cách ôn hòa, nhằm làm cho chủ nghĩa tư bản trở nên nhân văn hơn. Trong khi đó, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) chọn đi theo con đường cách mạng bạo lực của Lenin, theo đuổi lý tưởng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Quốc tế thứ Ba.

Trong thời kỳ bao cấp, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx - Lenin, Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kiểm soát các nguồn lực chủ chốt như đất đai và nhà máy thông qua doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Về chính trị, nhà nước duy trì chế độ tập quyền dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, kiểm soát chặt chẽ ý thức hệ và bóp nghẹt các quyền tự do dân sự, điển hình là quyền tự do ngôn luận.

Các chủ trương này đã gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng về kinh tế - xã hội, điển hình là sự trì trệ của các doanh nghiệp quốc doanh, năng suất lao động thấp, lạm phát cao, tình trạng thiếu lương thực và hàng hóa thiết yếu, phải phụ thuộc nhiều vào viện trợ từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác.

Có thể thấy, xuyên suốt dòng chảy của lịch sử, khi đứng trước các bước ngoặt quan trọng, Việt Nam đã không thể thoát khỏi xiềng xích của các thể chế kinh tế và chính trị mang tính tước đoạt.

Điều này chỉ thay đổi khi đất nước tiến hành Đổi mới vào năm 1986 và bắt đầu phát triển các thể chế kinh tế dung hợp. Nhờ đó, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo.

Tuy nhiên, đất nước vẫn đang đối mặt với một sức ì lớn, và nguyên nhân sâu xa xuất phát từ việc chậm cải cách thể chế chính trị. Những vấn đề như bộ máy nhà nước quan liêu và trì trệ, tham nhũng và lạm quyền, cùng sự gia tăng bất bình đẳng xã hội ngày càng làm xói mòn niềm tin của người dân vào chính quyền.

Phát biểu tại hôm khai mạc kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV vào ngày 21/10/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn, và cần tháo gỡ điểm nghẽn này để không lỡ thời cơ phát triển. [15] Trong khi đó, truyền thông nhà nước rầm rộ quảng bá về “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.”

Lãnh đạo đảng khẳng định việc khai thông điểm nghẽn thể chế là chìa khóa giúp hiện thực hóa khát vọng vươn mình. Vậy điểm nghẽn lớn nhất trong thể chế chính trị của Việt Nam là gì?

Việt Nam đã vươn lên thoát nghèo nhờ mở cửa thị trường và khuyến khích cạnh tranh trong kinh tế, nhưng để giải phóng toàn bộ tiềm năng và tiến tới một tương lai thịnh vượng và bền vững, đất nước cần một bước chuyển đột phá hơn: dân chủ hóa và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong chính trị. 

Thế hệ người Việt hôm nay sẽ chọn con đường nào và để lại di sản gì cho con cháu?

***

Lời cảm ơn: Tác giả chân thành cảm ơn Thầy và một số anh chị đã góp ý cho bản thảo của loạt bài viết này, và đặc biệt cảm ơn một bạn độc giả của Luật Khoa đã gợi ý đề tài cho chuỗi bài viết.

Đọc thêm:

Chủ nghĩa xã hội không chỉ có mây đen. Hãy nhìn ra ngoài cửa sổ
Luôn có hơn một cách hiểu về mọi điều. Miễn là ta đọc nhiều hơn một chút.
3 điều cần làm rõ về “chủ nghĩa xã hội” trước khi dán nhãn người khác
Đóng thuế nhiều? Chủ nghĩa xã hội! Đất nước có an sinh, phúc lợi tốt? Chủ nghĩa xã hội! Các quốc gia Bắc Âu? Chủ nghĩa xã hội! Ngày nay, ta dễ dàng bắt gặp những quy chụp giản tiện trên trong các cuộc thảo luận chính trị. Không biết vô tình hay hữu ý, […]
Nghe Hayek đả phá chủ nghĩa xã hội trong “Đường về nô lệ”
“Ở miền Nam, những người trước đây nhờ chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ mà có một mức sống vật chất vượt xa khả năng của nền kinh tế trong nước và kết quả lao động của bản thân họ … cần trở lại với thực tế, trở về với cuộc sống của […]

Chú thích

  1. CIA (2024, September 09). North Korea. The World Factbook. https://www.cia.gov/the-world-factbook/countries/korea-north/#introduction
  2. North, D. (1990) Institutions, Institutional Change and Economic Performance. Cambridge University Press.
  3. Acemoglu, D. & Robinson, J. A. (2012) Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói (Biên dịch: Trần Thị Kim Chi). Nhà xuất bản Trẻ.
  4. Kurlantzick, J. (2016). State Capitalism: How the Return of Statism is Transforming the World. Oxford University Press.
  5. Minxin Pei (2018) Tư bản thân hữu Trung Quốc (Bản Việt ngữ Nguyễn Đình Huỳnh). Nhà xuất bản Hội nhà văn. Bản gốc tiếng Anh có tựa đề China’s crony capitalism: The dynamics of regime decay, được xuất bản lần đầu năm 2016.
  6. Minxin Pei (2018).
  7. Economy, E. C. (2018). The Third Revolution: Xi Jinping and the New Chinese State. Oxford University Press.
  8. Pomfret, J. (2013, March 7). China village seethes over land grabs as Beijing mulls new lands. Reuters. https://www.reuters.com/article/world/china-village-seethes-over-land-grabs-as-beijing-mulls-new-laws-idUSBRE9260CH
  9. Joseph, W. A. (Ed.). (2019). Politics in China: An introduction (third edition). Oxford University Press, USA.
  10. Marx, K. & Engels, F. (1848). The Communist Manifesto. Marx/Engels Internet Archive (marxists.org) 1987, 2000. https://www.marxists.org/archive/marx/works/1848/communist-manifesto/index.htm
  11. Trong bản tiếng Anh của Tuyên ngôn cộng sản, Marx và Engels mô tả về xã hội lý tưởng như sau: “the free development of each is the condition for the free development of all.”
  12. Lê Quý Đôn. (1961). Kiến văn tiểu lục (Phạm Trọng Điềm phiên dịch). Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, trang 44 & 51.
  13. Hoàng Hằng, Hồng Nhung (2017, April 13). Nguyễn Trường Tộ dưới góc nhìn của người Pháp. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. https://www.archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/nguyen-truong-to-duoi-goc-nhin-cua-nguoi-phap.htm
  14. Tại khu vực Đông Á trước thế kỷ 19, Trung Hoa coi mình là "trung tâm của vũ trụ" và các quốc gia xung quanh, chẳng hạn như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Tây Tạng và quần đảo Ryukyu, là chư hầu. Những quốc gia này thừa nhận sự thống trị của Trung Hoa, thực hiện nghĩa vụ cống nạp và tham gia vào các nghi lễ ngoại giao theo quy tắc Trung Hoa. Các dân tộc không tuân theo chuẩn mực văn hóa, xã hội và hành chính của Trung Hoa, đặc biệt là các giá trị đạo đức Nho giáo, thường bị coi là "man di" hoặc "nhương di". Các quốc gia phương Tây như Anh và Pháp cũng bị xem là "man di" trong thế giới quan Khổng giáo này. Tham khảo: Kang, D. C. (2020). International order in historical East Asia: tribute and hierarchy beyond Sinocentrism and Eurocentrism. International Organization, 74(1), 65-93.
  15. Phương, A. (2024, October 21). Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: Thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn.” Báo Sài Gòn Giải Phóng. https://www.sggp.org.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-the-che-la-diem-nghen-cua-diem-nghen-post764593.html

Bạn đã đăng ký thành công!

Mừng bạn trở lại!

Bạn đã đăng ký thành công.

Vui lòng kiểm tra hộp thư để lấy link đăng nhập.

Thông tin thanh toán của bạn đã được cập nhật.

Thông tin thanh toán của bạn chưa được cập nhật.