Từ Sài Gòn đến San Diego: Hành trình vượt biên của một thiếu niên Vũng Tàu
Cuốn hồi ký Saigon to San Diego (tạm dịch: Từ Sài Gòn đến San Diego) của Đỗ Quang Trình, xuất
Hệ thống tòa án ở Mỹ không chỉ khác nhau giữa cấp liên bang và tiểu bang về quy trình bổ nhiệm thẩm phán, mà còn ở cách thức họ rời nhiệm sở. Nếu như thẩm phán liên bang được tại vị trọn đời, thì tại nhiều tiểu bang - đặc biệt là California - cử tri có thể trực tiếp bỏ phiếu quyết định liệu một thẩm phán có tiếp tục giữ chức hay không.
Về tư pháp, tổng thống có quyền đề cử các thẩm phán liên bang, và phải được Thượng viện chấp thuận (Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều 2, Mục 2). [1] [2] Một khi Thượng viện đã chấp thuận, thẩm phán liên bang sẽ tại chức trọn đời (Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều 3, Mục 1). [3] Điều này áp dụng cho thẩm phán liên bang tất cả các cấp, từ tòa sơ thẩm (district), lên tới phúc thẩm (circuit), và tối cao. [4]
Việc thẩm phán có quyền tại chức trọn đời dẫn tới việc các tổng thống bổ nhiệm thẩm phán trẻ, để duy trì ảnh hưởng của mình lâu dài. Thí dụ, Thẩm phán Amy Coney Barrett do Tổng thống Trump bổ nhiệm nhậm chức năm 48 tuổi, thay thế Thẩm phán Ruth Bader Ginsburg nhậm chức năm 60 tuổi.
Mở ngoặc nói thêm là có những thẩm phán hoạt động trong hệ thống liên bang nhưng không thuộc cơ chế tổng thống bổ nhiệm Thượng viện chấp thuận. Những người đó phục vụ ở nội bộ ngành hành pháp và không được tại chức trọn đời.
Thí dụ như thẩm phán tòa di trú, chuyên xử những vụ trục xuất, những đơn tị nạn chính trị. Thẩm phán tòa di trú là luật sư công chức của Sở Di trú, Bộ An ninh Nội địa. [5] Họ không có quyền lực độc lập như các thẩm phán liên bang, vì họ chịu sự quản lý của Bộ An ninh Nội địa. Bộ trưởng Bộ An ninh Nội địa có quyền cách chức, hoặc thuyên chuyển họ qua những việc làm khác, không xử án nữa. Trong giới luật pháp Mỹ, những thẩm phán tòa liên bang do tổng thống đề cử và Quốc hội thông qua được gọi là “Article III judges” (tạm dịch: Thẩm phán Điều 3) lấy theo Điều 3 Hiến pháp - điều khoản về ngành tư pháp. Những thẩm phán tòa di trú, tòa an sinh xã hội, v.v. làm công chức của một bộ nào đó, được gọi là “Article II judges” (tạm dịch: Thẩm phán Điều 2) lấy theo Điều 2 Hiến pháp về ngành hành pháp.
Ở cấp tiểu bang, thẩm phán không những có nhiệm kỳ giới hạn, mà cử tri còn có thể bỏ phiếu quyết định chiếc ghế của họ.
Lấy tiểu bang California làm ví dụ.
Ở California, quyền đề cử thẩm phán của thống đốc phức tạp hơn so với liên bang. Hệ thống tòa án ở California cũng chia làm ba bậc, tòa sơ thẩm (Superior Court), tòa phúc thẩm (Court of Appeals), và tòa tối cao (Supreme Court).
Ở hai mức cao hơn - tòa phúc thẩm và tối cao - thống đốc đề cử, và một ủy ban gọi là Commission on Judicial Appointments (tạm dịch: Ủy ban Bổ nhiệm Thẩm phán) chấp thuận (Hiến pháp California, Điều 6, Mục 7). [6] Ủy ban này gồm ba vị: Chánh án tòa Tối cao California, Bộ trưởng Tư pháp California, và Chánh án tòa phúc thẩm nơi người đó được đề cử. Khi thẩm phán tòa tối cao được đề cử, người thứ ba sẽ là chánh án thâm niên nhất của các tòa phúc thẩm. [7]
Thẩm phán tòa tối cao, tòa phúc thẩm mỗi 12 năm phải cho cử tri bỏ phiếu tín nhiệm có giữ lại hay không. Nếu bị cử tri bác, thống đốc sẽ đề cử người khác thay thế (Hiến pháp California, Điều 6, Mục 16). [8]
Trong lịch sử California, đã có lần gần nửa số thẩm phán Tối cao Pháp viện California bị cử tri loại bỏ hàng loạt. Năm 1986, Tòa tối cao California với Chánh án Rose Bird bị cho là quá dễ dãi với tội phạm khi lật ngược nhiều án tử hình. Một cuộc vận động diễn ra để loại bỏ bà Rose Bird và một số đồng viện với sự tham gia tích cực của Bộ trưởng Tư pháp liên bang Edwin Meese, một cư dân California. Kết quả, Chánh án Rose Bird và hai thẩm phán Joseph Grodin và Cruz Reynoso thua. [9] Thống đốc George Deukmejian đề cử ba người khác thay thế, đưa đến một tòa tối cao bảo thủ hơn. [10]
Ở tòa sơ thẩm, thống đốc có quyền đề cử thẳng thẩm phán mà không cần sự phê duyệt từ cơ quan nào khác. Tuy nhiên, thẩm phán này chỉ tại chức cho tới kỳ bầu cử sau đó, khi cử tri sẽ quyết định có tiếp tục giữ lại thẩm phán đó hay không. Với thẩm phán tòa sơ thẩm, cử tri được bầu cụ thể cho người này hay người kia, thay vì chỉ bầu “yes/no” (có/không) cho tòa cao hơn (Hiến pháp California, Điều 6, Mục 16). [11]
Có thể thấy giữa hệ thống liên bang và California, tổng thống có nhiều ảnh hưởng lên các tòa án liên bang hơn là thống đốc với tiểu bang. Tổng thống có quyền bổ nhiệm tất cả thẩm phán liên bang, nhưng cần sự chấp thuận của Thượng viện. Trong khi đó, thống đốc chỉ bổ nhiệm các thẩm phán khi có chỗ trống, và cử tri có tiếng nói đáng kể trong việc ai làm thẩm phán.
Loạt bài ba kỳ này cho thấy có những sự khác biệt lớn giữa Hiến pháp liên bang và Hiến pháp California. Hiến pháp tất cả các bang cũng đều không giống liên bang. Một phần là vì Hiến pháp liên bang có nhu cầu thỏa hiệp những đòi hỏi của 13 bang nguyên thủy, trong khi từng bang không có nhu cầu đó. Các bang, ngay cả các bang gia nhập Hoa Kỳ sau ngày lập quốc như California, không chỉ sao chép Hiến pháp liên bang, mà họ tự lập một hệ thống chính trị thích hợp cho chính họ.
Mời độc giả tham khảo các kỳ trước của loạt bài:
1. Tổng thống đề cử thẩm phán liên bang, sau đó Thượng viện tổ chức điều trần và bỏ phiếu để phê chuẩn hoặc bác bỏ đề cử.
2. U.S. Constitution - Article II | Resources | Constitution annotated | Congress.gov | Library of Congress. (n.d.). https://constitution.congress.gov/constitution/article-2/#article-2-section-2
3. U.S. Constitution - Article III | Resources | Constitution annotated | Congress.gov | Library of Congress. (n.d.). https://constitution.congress.gov/constitution/article-3/#article-3-section-1
4. Hệ thống tòa án liên bang Hoa Kỳ có ba cấp chính: (1) Tòa sơ thẩm (District Court) xét xử các vụ án liên bang, (2) Tòa phúc thẩm (Circuit Court) xem xét kháng cáo từ các tòa sơ thẩm, (3) Tòa án Tối cao Hoa Kỳ (Supreme Court) là cấp cao nhất, có quyền xét xử cuối cùng.
5. Bộ An ninh Nội địa Hoa Kỳ (Department of Homeland Security - DHS) là cơ quan liên bang chịu trách nhiệm bảo vệ nước Mỹ khỏi các mối đe dọa an ninh, bao gồm khủng bố, nhập cư trái phép, an ninh mạng và ứng phó thảm họa.
6. California Code, CONS SEC. 7. (n.d.). https://leginfo.legislature.ca.gov/faces/codes_displaySection.xhtml?lawCode=CONS§ionNum=SEC.%207.&article=VI
7. Ủy ban Bổ nhiệm Thẩm phán California giúp đảm bảo tính công minh và độc lập của ngành tư pháp. Khi có vị trí trống tại tòa phúc thẩm hoặc tòa tối cao, ủy ban này sẽ xem xét và phê duyệt các ứng viên thẩm phán do thống đốc đề cử. Năm 2020, ủy ban đã bổ nhiệm ông Javier S. Rodríguez sau rất nhiều bài kiểm tra chặt chẽ và bằng quy trình nghiêm ngặt. Quy trình này giúp giảm thiểu ảnh hưởng chính trị và đảm bảo các thẩm phán có đủ năng lực và phẩm hạnh.
8. California Code, CONS SEC. 16. (n.d.). https://leginfo.legislature.ca.gov/faces/codes_displaySection.xhtml?lawCode=CONS§ionNum=SEC.%2016.&article=VI
9. Times, N. Y. (1986, November 6). THE ELECTIONS: THE STORY IN SOME KEY STATES; DEUKMEJIAN AND CRANSTON WIN AS 3 JUDGES ARE OUSTED. The New York Times. https://www.nytimes.com/1986/11/06/us/elections-story-some-key-states-deukmejian-cranston-win-3-judges-are-ousted.html
10. Thẩm phán Tối cao Pháp viện California phải đối mặt với đánh giá của cử tri và bị bỏ phiếu bất tín nhiệm là đặc điểm của hệ thống pháp lý ở bang này. California là một trong số ít bang ở Mỹ áp dụng cơ chế tín nhiệm, để công dân được tham gia đánh giá công tác của thẩm phán. Từ năm 1930 tới nay, trung bình có khoảng 20% thẩm phán bị loại qua các cuộc bầu cử tín nhiệm. Con số này nhìn chung không cao, nhưng vẫn đủ để tạo ra sức nặng nhằm duy trì tính độc lập, minh bạch, và công bằng trong xét xử.
11. California Code, CONS SEC. 16. (n.d.). https://leginfo.legislature.ca.gov/faces/codes_displaySection.xhtml?lawCode=CONS§ionNum=SEC.%2016.&article=VI