Thư cuối tuần: Cập nhật chương trình Tặng báo tháng Ba
Đây là Thư cuối tuần của Luật Khoa tạp chí. Tuần này, ngoài việc điểm lại các bài, video đã
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới đình công ở Việt Nam, một trong số đó là vấn đề công ty nợ đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) cho người lao động.
Chủ trương “không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế và dân sự” của nước ta trong gần một thập niên qua đã vô tình tạo kẽ hở cho một số doanh nghiệp trục lợi, bao gồm trục lợi từ BHXH. Kết hợp với chính sách BHXH còn non trẻ và những lỗ hổng pháp luật, điều này đã đẩy nhiều người lao động vào hoàn cảnh bĩ cực.
Nợ đọng BHXH chỉ là một trong những vấn đề trong hệ thống bảo hiểm ở nước ta. Kể từ khi BHXH Việt Nam chính thức ra đời vào năm 1995 (sau đó là Quỹ BHXH được thành lập và độc lập với ngân sách nhà nước), các quy định về BHXH đã có nhiều thay đổi, và ở mỗi thời điểm sửa đổi đều chứng kiến làn sóng tranh luận, thậm chí là đình công.
Điển hình là cuộc đình công vào năm 2015 của công nhân Công ty TNHH PouYuen Việt Nam (quận Bình Tân, TP.HCM) - công ty được mệnh danh là đông nhân công nhất Sài Gòn - nhằm phản đối Điều 60 về quy định cấm rút BHXH một lần.
Ngay sau cuộc đình công này, Quốc hội đã phải “khai tử” Điều 60 để ổn định quan hệ lao động.
Ngày 29/6/2024, Luật BHXH (sửa đổi) được Quốc hội thông qua và sẽ có hiệu lực từ tháng 7/2025, hứa hẹn nhiều thay đổi quan trọng trong chính sách an sinh xã hội.
Tuy nhiên, trước khi có văn bản luật này, đã có hàng loạt tranh luận nổ ra, trong đó xoay quanh vấn đề rút BHXH một lần, chế độ hưu trí, v.v.
Cùng Luật Khoa tạp chí nhìn lại chính sách BHXH ở Việt Nam qua các thời kỳ và những vấn đề liên quan.
BHXH ở Việt Nam không phải là một khái niệm mới mà đã manh nha từ những năm đầu thế kỷ 20, chịu ảnh hưởng từ các chính sách bảo hiểm lao động thuộc địa.
Năm 1929, Đảng Cộng sản Đông Dương đề xuất chính sách BHXH cho giai cấp vô sản, gồm tổ chức công hội, bảo hiểm cho thợ thuyền và hỗ trợ thất nghiệp.
Trước Cách mạng Tháng Tám: Đảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng xây dựng Luật BHXH khi giành chính quyền.
Ngày 3/11/1945: Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Sắc lệnh 54-SL do Hồ Chí Minh ký ban hành quy định chế độ hưu trí cho công chức.
Ngày 14/6/1946: Hồ Chí Minh tiếp tục ban hành Sắc lệnh số 105/SL quy định việc cấp hưu bổng và đóng BHXH đối với công chức.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam có khung pháp luật điều chỉnh quyền lợi, mức hưởng lương hưu cho công chức, đồng thời thiết lập nguyên tắc đóng và hưởng BHXH, quy định trách nhiệm bảo hộ Quỹ BHXH của nhà nước.
Cũng tại Điều 14 của Hiến pháp 1946, trách nhiệm của nhà nước trong việc trợ giúp người già, tàn tật, trẻ em đã được ghi nhận. Điều này đã tạo cơ sở cho công tác trợ giúp xã hội sau này - và cùng với chính sách bảo hiểm - hình thành nên các trụ cột chính trong hệ thống an sinh ngày nay.
Ngày 12/3/1947: Sắc lệnh số 29-SL ra đời và được xem là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về các chế độ BHXH đối với công nhân nhà máy.
Năm 1950: Các sắc lệnh số 76-SL, 77-SL lần lượt được ban hành, quy định thêm về chế độ ốm đau, tai nạn lao động và chế độ hưu trí cho cán bộ, công nhân, viên chức.
Ngày 31/12/1959: Tôn Đức Thắng thay mặt Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký ban hành Hiến pháp 1959, cụ thể hóa chế định BHXH. Tại Điều 32 của Hiến pháp có nêu: “Người lao động có quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chức BHXH, cứu tế và y tế để bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền đó”.
Ngày 27/12/1961: Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ban hành Nghị định 218/CP (có hiệu lực từ ngày 1/1/1962), quy định điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước. Văn bản này đã thay thế tất cả những quy định trước đó về các chế độ BHXH.
Ban đầu, việc quản lý Quỹ Hưu bổng được giao cho Nha Hưu bổng (thuộc Chính phủ), nhưng 5 năm sau đó được giao lại cho Bộ Tài chính.
Bên cạnh đó, trách nhiệm quản lý Quỹ BHXH được giao cho Tổng Công đoàn Việt Nam, riêng công tác thu - chi sẽ do Tổng Công đoàn Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước đồng phụ trách.
Các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường phải trích nộp cho Quỹ BHXH số tiền bằng 10% so với tổng quỹ tiền lương của công nhân, viên chức mỗi tháng.
Trong khi đó, ở miền Nam, dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa (1955 - 1975), chưa xuất hiện cụm từ BHXH.
Ngày 26/10/1956: Ngô Đình Diệm ký văn bản ban hành Hiến pháp 1956. Tại bản hiến pháp này, lần lượt các điều 24, 25, 26 có nêu đến trách nhiệm quốc gia trong các lĩnh vực như các trường hợp đói nghèo, hộ gia đình, giáo dục, v.v. Cụ thể:
Ngày 8/7/1962: Dụ số 15 về Bộ luật Lao động được Quốc trưởng Bảo Đại ban hành. Theo đó, Sở Thanh tra và An ninh Xã hội được thành lập, coi quản việc thi hành các quy định liên quan đến lao động, nhân công, an ninh xã hội, tai nạn lao động, v.v.
Ngày 1/4/1967: Dưới thời Đệ nhị Cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu ký ban hành Hiến pháp 1967. Tại bản hiến pháp này, nhà nước tiến tới thiết lập chế độ “an ninh xã hội”, như tại Điều 18 có nêu:
1. Quốc gia nỗ lực thiết lập chế độ an ninh xã hội.
2. Quốc gia có nhiệm vụ thiết lập chế độ cứu trợ xã hội và y tế công cộng.
3. Quốc gia có nhiệm vụ nâng đỡ đời sống tinh thần và vật chất của các chiến sĩ quốc gia, bảo trợ và dưỡng dục các quốc gia nghĩa tử.
Năm 1967: Bộ Lao động cho xuất bản cuốn “Tập-lục các bản-văn áp-dụng Bộ luật Lao-động”, cuốn sách này là tập hợp các nghị định của cơ quan nhà nước nhằm điều chỉnh cụ thể các quan hệ lao động, hướng dẫn hoặc cấm đoán chi tiết về các vấn đề nghề nghiệp, an ninh xã hội.
Năm 1974: Giáo trình “Luật Lao-động và an ninh xã-hội” của GS. TS. Nguyễn Quang Quýnh được xuất bản, đồng thời cũng giải thích rõ hơn về “an ninh xã hội”.
Theo đó, thuật ngữ này được hiểu là sự bảo đảm một mức sống tối thiểu cho tất cả mọi người, trong bất kỳ trường hợp rủi ro nào (đau ốm, bệnh tật, tai nạn, thất nghiệp, tuổi già).
Ban đầu, người già bệnh hoạn, gặp tai nạn, v.v. chỉ được nhận chế độ “cứu tế” do các nhà hảo tâm hoặc do chính quyền hỗ trợ.
Hệ thống an ninh xã hội của Việt Nam Cộng hòa còn có “chế độ dự phòng” do các cơ quan bảo hiểm tư nhân và các Hội Tương tế thực hiện.
Thuật ngữ BHXH được xem như là chế độ thứ ba sau chế độ cứu tế và chế độ dự phòng.
Chế độ này đòi hỏi người thụ hưởng đóng góp phần nhỏ lợi tức của mình vào Quỹ BHXH do nhà nước bảo chứng. Chủ đơn vị sử dụng lao động và nhà nước cũng có trách nhiệm đóng góp vào quỹ này.
Ở thời này, nhà nước cũng có các chế độ phụ cấp “an ninh xã hội” cho giới làm công như phụ cấp gia đình, bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp (được cải tiến theo Luật số 009/73 ngày 11/7/1973); quy định các chế độ thụ hưởng cho một số diện đặc biệt, như chế độ hưu bổng văn giai chỉ áp dụng cho công chức.
Đồng thời, công chức cũng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi hơn công nhân ở nhà máy, như về phụ cấp gia đình, thời gian nghỉ thai sản có lương.
Sau năm 1975: Chính sách BHXH được thực hiện trên khắp cả nước. Tuy nhiên, sau khi nhà nước chuyển sang nền kinh tế quan liêu, bao cấp thì nguồn thu BHXH không hiệu quả.
Ngày 18/6/1976: Chính phủ ban hành Nghị định số 10-NĐ/76 về việc thực hiện các chế độ mất sức lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân viên chức và quân nhân ở miền Nam. Các chế độ này nhằm ổn định cuộc sống cho cán bộ, công nhân viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang, giải quyết hậu quả do chiến tranh để lại.
Ngày 18/9/1985: Nhằm xóa bỏ thời kỳ bao cấp, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 235-HĐBT về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang, bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển sang chế độ trả lương bằng tiền do quỹ hàng hóa bảo đảm.
Ở thời gian này, Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của cơ quan, xí nghiệp với mức đóng bằng 13% so với quỹ lương (trong đó, có 8% chi cho các chế độ mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; 5% cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp).
Trên thực tế, các mức đóng góp này không đủ để chi cho các chế độ BHXH. Việc chi trả vẫn phải phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
Ngày 18/12/1980: Hiến pháp 1980 ra đời, trong đó Điều 59 quy định: “[...] công nhân, viên chức khi về hưu, già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động được hưởng quyền lợi BHXH. Nhà nước mở rộng dần sự nghiệp BHXH theo trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân và bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền lợi đó. Nhà nước hướng dẫn các hợp tác xã thực hiện từng bước chế độ BHXH đối với xã viên”.
Năm 1991: Đại hội Đảng Cộng sản Toàn quốc lần thứ 7 yêu cầu đổi mới chính sách BHXH để tất cả người lao động và đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều đóng góp vào Quỹ BHXH.
Nhà nước sẽ từng bước tách Quỹ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước ra khỏi ngân sách và hình thành Quỹ BHXH chung cho người tham gia.
Năm 1992: Hiến pháp 1992 ra đời, trong đó, tại Điều 56 quy định: “Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”.
Năm 1993: Nhà nước phải bù tiền vào Quỹ BHXH tới 92,7%.
Điểm đáng lưu ý trong thời gian này là nhà nước xóa bỏ cơ chế tập trung và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, chính sách BHXH cũng có nhiều thay đổi.
Trong đó, nhà nước đã giao nhiệm vụ cụ thể cho những cơ quan liên quan. Đơn cử, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm thu BHXH của cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang; cơ quan Thuế tổ chức thu BHXH của người lao động trong các cơ sở kinh tế quốc doanh; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý hai chế độ hưu trí và tử tuất; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, v.v.
Ngoài ra, nhà nước cũng thí điểm thành lập các công ty BHXH ở năm địa phương, gồm: Hà Nội, TP.HCM, TP. Hải Phòng, Thái Bình và Bà Rịa - Vũng Tàu, nhằm xây dựng mô hình tổ chức BHXH và hạch toán Quỹ BHXH độc lập, cũng là tiền đề cho sự ra đời BHXH Việt Nam sau này.
Năm 1995: Đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong chính sách BHXH khi nhà nước mở rộng đối tượng thu BHXH, chính thức áp dụng bắt buộc cho người lao động ở mọi thành phần kinh tế.
Trên cơ sở Bộ luật Lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, Chính phủ cùng các bộ, ngành đã ban hành hàng loạt văn bản hướng dẫn thực hiện.
Trong đó, Nghị định số 12/CP vào ngày 26/1/1995 quy định áp dụng BHXH bắt buộc đối với công chức, viên chức nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp.
Đồng thời, nhà nước cũng thành lập Quỹ BHXH độc lập với ngân sách, phân công các cơ quan chuyên trách để quản lý quỹ và giải quyết các chế độ trợ cấp cho người tham gia.
Cũng trong năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP vào ngày 16/2, chính thức thành lập BHXH Việt Nam. Nghị định này cũng giải thích rõ về việc quản lý Quỹ BHXH.
Năm 1998, Bộ Tài chính ban hành thông tư hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam, trong đó có quy định cho phép BHXH Việt Nam được sử dụng tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXH để đầu tư nhưng phải đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất.
Năm 2002: Ngày 24/1/2002, thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg về việc chuyển bảo hiểm y tế (BHYT) Việt Nam sang BHXH Việt Nam.
Ngày 29/6/2006: Quốc hội khóa 11 (2002 - 2007) thông qua Luật BHXH.
Luật này có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ 1/1/2008 đối với BHXH tự nguyện và từ 1/1/2009 đối với bảo hiểm thất nghiệp; mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với người lao động làm việc theo hợp đồng có thời hạn từ ba tháng trở lên.
Ngoài ra, luật này cho phép người tham gia rút BHXH một lần.
Ngày 14/11/2008: Quốc hội khóa 12 (2007 - 2011) thông qua Luật BHYT, có hiệu lực từ ngày 1/1/2009.
Năm 2013: Nhà nước cho biết mới chỉ có 78% trong tổng số người thuộc diện bắt buộc đóng BHXH. So sánh với lực lượng lao động trên cả nước thì số người tham BHXH bắt buộc mới chiếm hơn 20%, trong khi đó, chính sách BHXH tự nguyện chưa thu hút người lao động tự do (chưa tới 1% đối tượng tham gia).
Tháng 2/2013: Các doanh nghiệp, đơn vị trên cả nước còn nợ BHXH, BHYT lên tới gần 10.400 tỷ đồng và không ít trong số này là “nợ khó đòi”.
Từ tháng 4/2008 - 8/2009, BHXH Việt Nam đã ký 14 hợp đồng cho Công ty Cho thuê Tài chính II (ALC II) vay vốn với tổng số tiền 1.010 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau đó công ty này đã không còn khả năng thanh toán lãi và nợ gốc đúng hạn. Đến cuối tháng 5/2014, ALC II mới chỉ trả được 237,7 tỷ đồng cho BHXH.
Tình trạng thất thu quỹ kéo dài đã khiến không ít người lao động mất niềm tin vào Quỹ BHXH và từ đó rút BHXH một lần. Điều này càng làm giảm nguồn thu hơn nữa. Thế là người ta bắt đầu lo ngại về việc vỡ quỹ.
Ngoài ra, một lý do trọng yếu khác dẫn đến việc phải sửa Luật BHXH 2006 là vì luật này cho phép người lao động rút BHXH một lần (Điều 55), khiến Quỹ BHXH “như cái chợ” mà người ta “thoải mái ra vô”. Kể từ đó, BHXH Việt Nam thống kê rằng trung bình cứ một người tham gia BHXH thì có một người rời khỏi quỹ.
Tất cả những điều này đặt ra yêu cầu nhà nước phải sửa đổi Luật BHXH 2006.
Ngày 20/11/2014: Quốc hội khóa 13 (2011 - 2016) thông qua Luật BHXH.
Luật này có hiệu lực từ 1/1/2016. Điểm nổi bật của luật này là bổ sung diện phải đóng BHXH bắt buộc và cấm rút BHXH một lần (Điều 60).
Ngày 26/3/2015: Có gần 90.000 công nhân của Công ty PouYuen Việt Nam - công ty được mệnh danh là đông nhân công nhất TP. HCM - đã đình công và tuần hành phản đối quy định này khi luật mới không cho phép người lao động được rút BHXH một lần. Lý do chính vẫn là vì đời sống công nhân vẫn còn khó khăn, trong khi đó, lương hưu quá thấp, thời gian đóng để hưởng lương hưu quá dài (20 năm).
Ông Lê Bạch Hồng, cựu thứ trưởng Bộ Lao động, Thương Binh và Xã Hội đã trả lời phỏng vấn với đài RFA rằng đình công là vì công nhân không hiểu rằng chính sách của nhà nước là đảm bảo quyền lợi lâu dài của người lao động.
Luật sư Lê Thị Công Nhân nói đây là một “bước lùi” trong thực hành quyền của người lao động.
Đại biểu Võ Thị Dung “tha thiết” đề nghị Quốc hội có lời xin lỗi người lao động trong quá trình sửa đổi luật. Theo bà, chính sách BHXH là vấn đề nhỏ, chính sách với người lao động mới là vấn đề lớn.
Ngày 22/6/2015: Trước sức ép của làn sóng công nhân, các bên liên quan phải đệ trình kiến nghị xin Quốc hội bãi bỏ Điều 60. Cuối cùng, các đại biểu đã thông qua Nghị quyết 93/2015 để “khai tử” điều luật này.
Với truyền thống sửa luật sau 10 năm, chính phủ tiếp tục muốn sửa đổi Luật BHXH 2014.
Các lý do chính mà chính phủ đưa ra là Luật BHXH 2014 vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, như tỷ lệ người tham gia BHXH còn thấp; quỹ hưu trí và tử tuất không đảm bảo cân đối trong dài hạn; thời gian đóng BHXH dài (20 năm) mới có thể hưởng lương hưu, người dân đến và rời BHXH “như cái chợ”, v.v.
Năm 2020, ước tính có một triệu người tham gia BHXH thì cũng có 880.000 người nhận BHXH một lần (tức một người tham gia thì một người rời đi).
Những người rút BHXH một lần sẽ không có lương hưu khi về già, gây áp lực lên hệ thống trợ cấp xã hội của nhà nước.
Ngày 19/4/2021: Ông Đào Ngọc Dung khi đó là bộ trưởng Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội đã trình Chính phủ về đề án xây dựng Luật BHXH (sửa đổi).
Trong đó, có quy định chỉ giải quyết cho người lao động đã hết tuổi lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng lương hưu và không có nhu cầu đóng tiếp mới được hưởng BHXH một lần.
Theo thông tin vào thời điểm này, chính phủ dự định trình dự luật sửa đổi để Quốc hội thông qua vào giữa năm 2023.
Tuy nhiên, đến ngày 13/6/2022, Quốc hội mới ban hành nghị quyết Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, trong đó có nói Quốc hội sẽ cho ý kiến về Luật BHXH sửa đổi vào tháng 10/2023 (một trong những nguyên nhân chính do năm 2021 là đỉnh điểm của dịch COVID-19).
Ngày 2/6/2023, Quốc hội thông qua Nghị quyết 89/2023/QH15 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023. Theo đó, Luật BHXH (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 vào tháng 5/2024.
Kể từ thời điểm này, dự thảo mới đã được lấy ý kiến rộng rãi trên cả nước. Các bên liên quan như BHXH Việt Nam, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (cấp địa phương là Sở Lao động, Thương binh và Xã hội), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (cấp địa phương là Liên đoàn Lao động), các đoàn Đại biểu Quốc hội ở các tỉnh thành, v.v. đã tổ chức nhiều sự kiện để lấy ý kiến sửa đổi luật.
Theo ghi nhận của phóng viên Luật Khoa tạp chí, các đại biểu tham gia chủ yếu góp ý về ba vấn đề chính: lương hưu, phương án rút BHXH một lần và xử lý vấn đề nợ BHXH.
Ngày 3/8/2023: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) phối hợp tổ chức hội thảo tham vấn Dự thảo Luật BHXH (sửa đổi). Giám đốc ILO cho rằng Việt Nam gần như là nước duy nhất trên thế giới cho phép người lao động rút BHXH một lần, tại bất kỳ thời điểm nào, và cũng là nước duy nhất trên thế giới cho phép người lao động rút BHXH một lần rồi lại cấm rút.
Chính điều này tạo cho người dân cảm giác về hệ thống BHXH không vững bền.
Tháng 9/2023: Có 8.490 người lao động ở TP.HCM rút BHXH một lần, tăng 1.612 trường hợp so với tháng 8 (tăng gần 16%).
Theo BHXH TP. HCM, người lao động đã "chạy luật" vì sợ nhà nước cấm rút BHXH một lần.
Ngày 9/10/2023: Trong dự thảo Luật BHXH, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đề xuất hai phương án liên quan đến việc rút BHXH một lần, cụ thể:
Chiều 16/10/2023: Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM tổ chức hội thảo góp ý cho dự án luật BHXH (sửa đổi). Nhiều ý kiến đồng tình nên cấm rút BHXH một lần và chấp nhận rủi ro người dân chạy luật như “đau một lần rồi thôi”.
Tại hội thảo này, ông Củ Phát Nghiệp, chủ tịch Công đoàn Công ty TNHH PouYuen Việt Nam đồng tình với phương án đề xuất đóng BHXH sau ngày 1/7/2025 thì không được rút, trừ trường hợp được quy định. Tuy nhiên ông Nghiệp cho rằng điều quan trọng là cơ quan nhà nước cần quan tâm nâng cao chế độ hưu trí.
Các đại biểu Quốc hội tỏ ra khá thận trọng với đề nghị cấm rút BHXH một lần, và lý do chủ yếu vì thu nhập của người lao động, nhất là công nhân nhà máy, vẫn còn quá thấp. Nếu bị cấm rút BHXH một lần, người lao động có thể bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn hơn.
Ngày 18/10/2023: Đoàn Đại biểu Quốc hội TP. HCM phối hợp Liên đoàn Lao động TP. HCM tổ chức buổi tiếp xúc công nhân và các chủ doanh nghiệp để nghe góp ý dự thảo Luật BHXH (sửa đổi).
Tại đây, bà Ngô Thị Mỹ Kha, công nhân của Công ty TNHH Lạc Tỷ (quận Bình Tân), cho rằng lương hưu của đa số người lao động còn thấp và không đủ sống nên người lao động chưa “mặn mà”. Do đó, nhà nước phải nâng mức lương hưu, cụ thể là nâng mức trần hưởng lương hưu bằng lương tối thiểu vùng.
Theo Luật BHXH 2014, mức lương hưu của người lao động được tính bằng mức lương đóng BHXH (theo tháng) nhân với tỷ lệ % hưởng lương hưu (tùy thuộc vào thời gian đóng BHXH). Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp lại cố tình tránh né đóng BHXH bằng cách tách thu nhập của người lao động thành nhiều khoản phụ cấp, trợ cấp, khiến mức lương của người lao động những năm qua thấp hơn so với thu nhập mà họ được nhận.
Ngày 27/5/2024, Dự thảo Luật BHXH (sửa đổi) tiếp tục được bàn thảo trong phiên làm việc của kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa 15 (nhiệm kỳ 2021 - 2026).
Trong đó, Chính phủ đề xuất tăng lương 30% cho cán bộ, công chức, viên chức và tăng 15% cho người nghỉ hưu từ ngày 1/7/2024.
Giải thích cho việc chỉ tăng 15% cho người nghỉ hưu, Phó chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Đặng Thuần Phong cho rằng: “Lương hưu tăng 15% nhưng thực tế nếu cộng dồn các năm qua khi liên tục nâng lên theo chỉ số CPI (chỉ số tiêu dùng) thì cao hơn 30% so với cán bộ, công chức”.
Ngoài ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề xuất “phương án 1” về rút BHXH một lần, trong đó chia người lao động thành hai nhóm: nhóm tham gia BHXH trước 1/7/2025 vẫn được nhận BHXH một lần sau 12 tháng không tham gia BHXH bắt buộc hoặc tự nguyện; trong khi nhóm tham gia sau thời điểm này sẽ không được rút.
Sáng 29/6/2024: Quốc hội biểu quyết. Đa số đại biểu ủng hộ phương án 1 về điều kiện hưởng BHXH một lần, nhưng đề nghị cần có chính sách hỗ trợ tín dụng, ưu đãi dạy nghề và chuyển đổi nghề nghiệp để giảm thiểu tình trạng rút “chạy luật”.
Các đại biểu cũng thảo luận về việc thay thế "mức lương cơ sở" bằng "mức tham chiếu", có biện pháp xử lý chậm đóng và trốn đóng BHXH, cũng như cơ chế bảo vệ người lao động khi người sử dụng lao động không còn khả năng đóng BHXH.
Nhiều đại biểu đã bày tỏ quan điểm về việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc cũng như các chính sách cho người tham gia BHXH tự nguyện.
Ngày 29/6/2024: Quốc hội chính thức thông qua Luật BHXH (sửa đổi) với tỷ lệ rất cao (93,42% tổng số đại biểu bỏ phiếu tán thành), các đại biểu đồng thuận áp dụng “phương án 1” để luật hóa các quy định trong luật mới.
Luật chính thức có hiệu lực vào ngày 1/7/2025.
Tháng 12/2024: Cả nước có gần 3,4 triệu người hưởng các chế độ hưu trí và trợ cấp BHXH hằng tháng. Tuy nhiên, đến nay, mức hưởng lương hưu vẫn là một chủ đề gây tranh cãi.
Thống kê cho thấy mức lương hưu bình quân ở Việt Nam hiện nay (thống kê đến thời điểm tháng 12/2024) là 6,2 triệu đồng/tháng. Trả lời phỏng vấn của Báo Lao động, ông Nguyễn Văn Sáo (sinh năm 1959, sống tại TP Biên Hòa, Đồng Nai) cho biết ông làm công nhân sửa chữa đường sắt - ngành nghề thuộc danh mục nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm loại V - từ năm 1978, đến khi nghỉ hưu vào năm 2014. Sau gần 37 năm đóng BHXH, ông Sáo chỉ nhận được mức lương hưu hơn 3,2 triệu đồng/tháng. Ông bày tỏ sự hụt hẫng vì mức lương hưu quá thấp.
Chúng tôi không nhận ngân sách nhà nước, cũng không thuộc tổ chức hay doanh nghiệp nào có tài chính dồi dào. Kinh phí hoạt động của chúng tôi một phần đến từ các nhà tài trợ - ủng hộ việc làm báo độc lập của Luật Khoa, phần còn lại đến từ chương trình Đọc báo trả phí.
Chúng tôi chọn đặt niềm tin vào độc giả, vào những người Việt Nam trân trọng báo chí độc lập, chất lượng, chân thực và đa chiều để vượt qua giai đoạn sóng gió này. Nếu bạn tin rằng báo chí độc lập cần tồn tại ở Việt Nam, chúng tôi mong bạn cùng đồng hành.