Từ Sài Gòn đến San Diego: Hành trình vượt biên của một thiếu niên Vũng Tàu
Cuốn hồi ký Saigon to San Diego (tạm dịch: Từ Sài Gòn đến San Diego) của Đỗ Quang Trình, xuất
Bài viết dưới đây dựa trên khảo luận của tác giả Nguyễn Địch Điềm, Ban Báo chí, Phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn, Viện Đại học Vạn Hạnh. Khảo luận có tiêu đề “Báo chí - Chính quyền qua việc thi hành Quy chế báo chí”, đề tháng Năm, 1972.
Khảo luận này được viết theo lối nghiên cứu. Luật Khoa tạp chí trích dẫn một số đoạn và sắp xếp lại tư liệu để tiện cho độc giả theo dõi.
***
Nền Đệ nhị Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa, tuy là thử nghiệm dân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vẫn là một thử nghiệm còn lắm khiếm khuyết. Điều này được phản ánh rõ nét qua chế độ quản lý báo chí.
Trước khi đi vào chi tiết, nhẽ cũng cần nói đôi điều về lịch sử Việt Nam Cộng hòa để bạn đọc hiểu chúng ta đang nói tới thời kỳ nào.
Việt Nam Cộng hòa ra đời bên dưới vĩ tuyến 17 vào năm 1955, kế thừa Quốc gia Việt Nam, sau khi thủ tướng khi đó là Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý phế truất Quốc trưởng Bảo Đại. Phải đến ngày 26/10/1956, khi bản Hiến pháp 1956 có hiệu lực thì mới bắt đầu nền Đệ nhất Cộng hòa.
Sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa chấm dứt vào năm 1963 cùng với cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm, kéo theo một thời kỳ quân quản kéo dài, nền Đệ nhị Cộng hòa bắt đầu vào ngày 1/4/1967, khi bản Hiến pháp 1967 chính thức có hiệu lực.
Quyền tự do báo chí được ghi nhận là một quyền căn bản trong bản hiến pháp này.
Hai năm sau khi Hiến pháp 1967 ra đời, các quy định về hoạt động báo chí được nêu rõ ràng hơn trong Quy chế báo chí - luật số 019/69, ra ngày 30/12/1969.
Quy chế này nêu rõ:
Quyền tự do báo chí đã được ghi nhận và củng cố qua nhánh quyền lực lập pháp, cụ thể như trong Hiến pháp 1967 và Quy chế báo chí 1969. Tuy nhiên, giới báo chí và nhánh hành pháp luôn có nhiều đụng độ. Trong khi giới báo chí ra sức khai thác mọi ngõ ngách khắc nghiệt của xã hội và phê phán nhiều hoạt động của chính phủ, chính quyền cũng tìm mọi cách ngăn chặn các hoạt động “soi mói” của nhà báo.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố trong mùa tranh cử năm 1971 rằng “báo chí được quyền chỉ trích chủ trương và đường lối của Liên danh Dân chủ một cách ôn hòa và trong khuôn khổ luật định.” Tuy vậy, chính quyền của ông Thiệu lại vẫn tiến hành tịch thu một số tờ báo với lý do không được dùng báo chí để phổ biến các tin tức có thật nhưng với dụng ý làm phương hại nền an ninh quốc gia và trật tự công cộng.
Chính quyền thực hiện bốn nhóm biện pháp cơ bản để hạn chế báo chí: tăng giá giấy, kiểm duyệt báo, cắt bỏ bài báo, tịch thu báo.
Trước tình hình có nhiều số báo ra đời nhờ Quy chế báo chí tạo điều kiện dễ dàng, chính phủ đã quyết định tăng giá giấy in báo lên 125% vào tháng Hai năm 1970. Giá giấy cao khiến các số phát hành sụt giảm. Các báo độc lập không có tài trợ dần phải đóng cửa.
Giới báo chí đã đấu tranh quyết liệt trước quyết định này. Cuối cùng, chính quyền phải đồng ý cung cấp 1.000 tấn giấy miễn thuế cho báo chí.
Chính quyền cũng lập ra phòng Điểm báo, Nha Báo chí có nhiệm vụ “duyệt báo”, tìm ra sai phạm, lập phiếu trình đề nghị tịch thu và lý do tịch thu.
Phòng Điểm báo có thẩm quyền và khả năng liên lạc điện thoại trực tiếp với Bộ Thông tin và Bộ Nội vụ để thực hiện tịch thu báo ngay khi phát hiện “sai phạm”. Sở dĩ họ làm được như vậy là dựa vào điểm “sơ hở” trong Quy chế báo chí.
Điều 2 Quy chế báo chí ấn định: “Chế độ kiểm duyệt báo chí không được chấp nhận”, nhưng Điều 13 lại nói: “Nhật báo chỉ được đem ra khỏi nhà in để phát hành 2 giờ sau khi đã nạp bản […] Đối với các loại báo định kì, thời hạn trên là 6 giờ”. Điều này cho phép Phòng Điểm báo có đủ thì giờ để kiểm duyệt báo trước khi chúng được xuất xưởng.
Chính quyền cũng có quyền yêu cầu các tờ báo phải cắt bỏ một số đoạn trong bài báo hoặc nguyên bài trong một số báo. Tòa báo có quyền chọn cắt bỏ phần theo yêu cầu hoặc chấp nhận bị tịch thu nguyên tờ báo do không muốn làm thay đổi ý nghĩa của bài báo.
Quy chế báo chí 1969 bãi bỏ chế độ kiểm duyệt, trao quyền tự do lựa chọn tin tức cho nhà báo và tòa soạn báo. Tuy nhiên, giới báo chí vẫn phải đương đầu với nạn tịch thu báo do chính quyền đã khai thác triệt để các câu chữ không rõ ràng trong Điều 19:
“Để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục, Tổng trưởng Nội vụ đối với báo chí xuất bản tại Sài Gòn, Gia Định, Thị trưởng - tỉnh trưởng đối với báo chí xuất bản tại địa phương liên hệ, có thể ra lệnh tịch thu một nhật báo hay tạp chí, trước khi lưu hành hay trong khi lưu hành.”
Các nhà lập pháp không định nghĩa rõ thế nào là “xâm phạm an ninh quốc gia”, “trật tự công cộng”, “thuần phong mỹ tục”. Bên hành pháp đã vin vào các duyên cớ này để hạn chế hoạt động của các tờ báo không thân thiện với chính quyền.
Các tờ báo đối lập như Tia Sáng, Điện Tín, là những tờ bị tịch thu nhiều nhất. Thời gian bị tịch thu căng thẳng nhất là xung quanh cuộc tranh cử tổng thống và phó tổng thống vào tháng 10/1971.
Vậy nhưng nói đi cũng phải nói lại, tuy rằng chính quyền Việt Nam Cộng hòa thời đó không ưa gì các kí giả chống đối và các bài báo chỉ trích và lên án mình, họ cũng không thể chà đạp lên Hiến pháp để hoàn toàn triệt hạ các tiếng nói đối lập.
Trong bài viết “Việt Nam Cộng hòa và báo chí đối lập giữa thời chiến” tiếp theo chuyện này sẽ được bàn rõ hơn. Kính mời đọc giả đón đọc!