Việt Nam kiểm duyệt phát ngôn của Tập Cận Bình; Giảm còn 34 tỉnh, thành sau sáp nhập
Các sự kiện nổi bật: * Phát ngôn của ông Tập Cận Bình không xuất hiện trên truyền thông Việt Nam
Bài viết gốc được đăng trên trang của Trung tâm Nghiên cứu Việt - Mỹ (Đại học Oregon) ngày 27/12/2020. Với sự đồng ý từ trung tâm, Luật Khoa tạp chí biên tập và giới thiệu lại bài viết của nhà văn Trùng Dương - một hồi tưởng sâu sắc về thời các nữ nhà văn miền Nam trước 1975 viết văn, sống bằng văn, và sống cùng tự do.
Trong số những tài liệu về các cây bút phái nữ trong văn học Việt Nam trước 1975 cho tới nay, tôi thấy chỉ có bài biên khảo công phu của Tiến sĩ Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang, tựa là “Các nhà văn nữ Nam Việt Nam, 1954-1975”, xuất hiện lần đầu trên tạp chí Vietnam Forum số 9, năm 1987 của Đại học Yale, là có vẻ đầy đủ và bao gồm hơn cả. [1]
Tưởng cũng nên phác qua bối cảnh trong đó bài biên khảo này được thực hiện. Vào đầu thập niên 1980, Southeast Asia Council (tạm dịch: Tổ chức Nghiên cứu Đông Nam Á) thuộc Đại học Yale phối hợp với American Council of Learned Societies (tạm dịch: Hội đồng các hội Học thuật Hoa Kỳ), với sự tài trợ của Ford Foundation, National Endowment for the Humanities (tạm dịch: Quỹ Quốc gia về Khoa học Nhân văn), và Henry Luce Foundation, đứng ra kêu gọi đề án nghiên cứu về miền Nam Việt Nam, với học bổng cho mỗi đề án là 25.000 USD, hoàn tất trong vòng một năm.
Trong số những đề án được chọn vào năm 1984, có ba đề án liên quan đến văn học:
Nhóm nghiên cứu báo chí miền Nam của nhà báo Đỗ Ngọc Yến (1941-2006) không biết vì lý do gì đã không hoàn tất. Hai dự án đầu thì đã thành tựu, với kết quả là cuốn “Văn học miền Nam Tổng quan, 1954-1975” của Võ Phiến (1925-2015) ra mắt lần đầu vào mùa hè năm 1986, và trước sau đã xuất bản bốn lần (sách giấy) vào các năm 1986, 1988, 2000, và 2014. [2]
Bài biên khảo về các nhà văn nữ của học giả Nha Trang (hoàn tất nghiên cứu trong vòng sáu tháng với một nửa khoản tài trợ như đơn nạp) thì chỉ mới xuất hiện trên Vietnam Forum, sau này được tác giả hiệu đính và bổ túc thêm và đăng trên trang nhà của tác giả.
Trong bài biên khảo dài gần 30.000 chữ này, tác giả vẽ lại khung cảnh và những khuôn mặt cầm bút phái nữ của miền Nam trong vòng 21 năm từ thập niên 1960, họ thực sự có cơ hội phát triển và trở thành những ngòi bút chuyên nghiệp, có thể sinh sống và cưu mang gia đình bằng ngòi bút của mình.
Ngoài ra, tác giả còn vẽ lại khởi thủy của nền văn học phái nữ khi giới thiệu những ngòi bút (lông) của các nữ sĩ tiền bối, như các bà Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, qua thời chữ Quốc ngữ được dùng làm chữ viết chính thức vào đầu thế kỷ 20, với các cây bút (sắt) tiền bối, như Tương Phố, Thụy An, Mộng Sơn, Thiếu Mai Vũ Bá Hùng, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo và nhiều khuôn mặt nữ văn/thi sĩ khác.
Bài biên khảo, dù được viết ra gần 40 năm trước, vẫn có cái giá trị tài liệu đứng vững với thời gian, cung cấp khởi điểm cho những ai muốn nghiên cứu thêm về một giai đoạn văn học có thể nói là độc đáo này.
Từ hơn hai năm nay Trịnh Y Thư (cựu chủ biên tạp chí Văn học) nuôi ý định dịch và in song ngữ bài biên khảo chưa được phổ biến rộng rãi này.
Mục đích đầu tiên là giới thiệu một bài biên khảo nghiên cứu và tổng hợp công phu như một tài liệu văn học có thể gọi là độc nhất về một mảng văn học đặc biệt trong dòng văn học Việt tự do.
Thứ hai là đưa ra một mẫu mực biên khảo có tính cách học thuật để những ai quan tâm có thể học hỏi hoặc dùng nó như một điểm khởi hành cho các đề tài nghiên cứu tương lai.
Và cuối cùng, chúng tôi định sẽ cố hết sức dịch thật sát nghĩa khi nào có thể, để giúp cho giới độc giả muốn đồng thời trau dồi Anh ngữ.
Trịnh Y Thư cũng đã xin được phép của tác giả Nha Trang, sau khi đã chạy lòng vòng tới tận Southeast Asia Council ở Đại học Yale vì chị Nha Trang nghĩ là nơi này giữ tác quyền, do chỗ họ là một trong những cơ quan khởi xướng và hỗ trợ cho công cuộc nghiên cứu của chị.
Tuy nhiên, đại diện của hội đồng này nói không có giấy tờ gì để minh chứng bản quyền là của họ, nên coi như tác quyền thuộc về tác giả bài biên khảo này. Về các tài liệu hỗ trợ cho bài biên khảo, trong một trao đổi qua điện thư gần đây, chị Nha Trang cũng cho biết những tài liệu thu thập được, kể cả hình ảnh và các bản chép lại (transcription) các băng phỏng vấn, thì chị đã nộp ngay sau khi hoàn thành nghiên cứu vào năm 1984 cho Indochina Studies Program thuộc Social Science Research Council (tạm dịch: Chương trình Nghiên cứu Đông Dương thuộc Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Xã hội) ở New York.
Thực ra đây không phải là lần đầu bài biên khảo của chị Nha Trang được dự định dịch ra Việt ngữ. Cách đây khoảng 10 năm, cố luật sư Đoàn Thanh Liêm (1934-2018), theo lời yêu cầu của nhà văn Phạm Phú Minh lúc ấy đang làm chủ bút tạp chí Phụ Nữ Diễn Đàn, đã dịch tài liệu này và đăng báo được vài kỳ thì ngưng. Dự án dịch bị bỏ dở từ đó. Khi Trịnh Y Thư xây dựng nhà xuất bản Văn Học, anh có ý định dịch và in song ngữ, do đấy đã xin được phép của tác giả.
Từ đấy đã hơn hai năm trôi qua, Trịnh Y Thư bận với những dự án khác. Nhân dịch một đoạn trong bài biên khảo bàn về Túy Hồng (một tác giả trong nhóm “Năm Nữ Quái” thời Việt Nam Cộng hòa) cho bài tưởng niệm khi chị qua đời vào tháng 7 năm 2020, tôi cảm thấy không nỡ cất đi một viên ngọc quý mà không đem ra chia sẻ với độc giả Việt ngữ, đặc biệt giới trẻ gần đây có nhu cầu tìm hiểu về văn học miền Nam trước 1975. Nên đề nghị với Trịnh Y Thư là nếu anh bận thì để tôi dịch và Trịnh Y Thư sẽ hiệu đính — tôi vẫn trân trọng lối dịch thuật của Trịnh Y Thư với việc dùng chữ rất chính xác, đôi khi anh sáng tạo được nhiều từ hay mà vẫn sát nghĩa, nên sẽ làm cho bản dịch tốt hơn, đặc biệt cho mục đích thứ ba của dự án như đã kể ở trên.
Nhân dịch bài về các nhà văn nữ của miền Nam trong 21 năm cuộc đời ngắn ngủi của một miền Nam tự do, và có dịp sống lại giai đoạn đó qua cái nhìn của một người đã sống ba phần tư thế kỷ, tôi xin đóng góp chút hồi tưởng về những gì mình biết và còn nhớ, và vài suy nghiệm cá nhân.
Nói về nhóm phụ nữ cầm bút thời đệ nhị Việt Nam Cộng hòa, đặc biệt nhóm năm chị em chúng tôi gồm Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ và tôi (Trùng Dương), mà nhiều người trong giới văn học đặt cho hỗn danh là “Năm Nữ Quái”, có lần Hồ Trường An (1938-2020), em của Thụy Vũ, kể với chị Thụy Khuê là năm chúng tôi đã từng họp nhau bàn bạc chiến thuật này kia. Tôi không khỏi bật cười, bảo làm gì có chuyện đó, rằng anh chàng họ Hồ này hoặc đùa hoặc tưởng tượng miết rồi tưởng là thật. Đúng ra, chúng tôi rất ít liên lạc với nhau, chứ đừng nói chuyện họp mặt bàn bạc có vẻ chặt chẽ thân thiết như vậy.
Trong suốt thời gian khoảng 10 năm cuối của thời Cộng hòa – thời mà tôi hay đùa gọi là “múa gậy vườn hoang” của giới cầm bút phái nữ – chỉ có một lần duy nhất mà tôi nhớ được, không rõ năm nào, khi mấy chị em chúng tôi cùng đứng chung trên sân khấu của phòng trà Khánh Ly ở cuối đường Tự Do gần Bến Bạch Đằng, trong một dịp gây quỹ cho nạn nhân chiến cuộc hay bão lụt gì đó.
Mỗi người chúng tôi dạo ấy đúng ra là một hòn ốc đảo, phần lớn vì ai cũng phải kiếm sống và bận con cái còn nhỏ, nhất là khi bốn chị kia đều đã xoay ra viết văn chuyên nghiệp, mỗi người ôm mấy cái truyện dài đăng báo từng kỳ mỗi ngày, ngoài việc chăm nom nhà xuất bản của riêng họ – Nhã Ca, Thụy Vũ và cả Nguyễn Thị Hoàng đều có nhà xuất bản riêng. Vả, ai cũng còn bận lo cho gia đình.
Riêng Thụy Vũ và tôi, vì ở gần nhà nhau ở khu Chợ Vườn Chuối trên đường Phan Đình Phùng ở Sài Gòn, lại cả hai cùng độc thân, nên có đi lại thăm nhau thường hơn. Dù vậy, hai chúng tôi rất ít khi bàn chuyện viết lách, một phần cũng vì viết truyện là một hành trình đơn độc, không thể chia sẻ được, ít ra đó là lối của tôi và có lẽ của một số người cầm bút khác. Chưa kể, một khi đặt bút, cá nhân tôi thường chẳng biết được liệu mình có đi được đến cuối đường khi chấm cái chấm hết.
Tôi viết văn tài tử như thế đó – đi chơi còn có nơi đến, chứ mà mỗi khi tôi đặt bút viết truyện, tôi thực lòng không biết nơi đến của mình cho đến khi, nếu may mắn cuối cùng… đến.
Khác với các bạn đồng nghiệp cùng thời, tôi không phải là một cây bút chuyên nghiệp vì không kiếm sống bằng ngòi bút. Chủ bút tạp chí Văn hồi ấy, Trần Phong Giao (1932-2005), gọi tôi là cây bút xuân thu nhị kỳ.
Dù vậy, có một lúc, vào cuối thập niên 1960, anh ta cũng xâm mình rủ tôi viết truyện dài cho Văn, hy vọng nhờ vậy tôi sẽ có được truyện dài đầu tay. Tôi về hí hoáy dàn dựng một số nhân vật và sơ lược truyện, lấy tựa là “Bầy Kên Kên”, mang nạp cho chủ bút. Anh xem, gật gù, khuyến khích, bảo viết đi. Tôi viết đâu được vài kỳ thì… lặn. Làm anh chủ bút phải xách Vespa đi tìm tác giả, khuyên răn, “khi viết nên chịu khó để ý tới động tác, tránh để nhân vật suy nghĩ nhiều quá dễ bị sa lầy.”
Rút cục, khi không thấy tăm hơi tác giả đâu, chủ bút đành cáo lỗi “tác giả bận công tác, tạm ngưng.” Tội nghiệp ông chủ bút. Hồi ấy không chỉ mình tôi “bận công tác, tạm ngưng”, mà cả Tô Thủy Yên cũng “bận công tác” như thế, chính Trần Phong Giao than với tôi, khiến tôi cũng… bớt áy náy. Nhà thơ tên tuổi còn vậy, huống chi tôi, một kẻ đến sau.
Từ những nẻo đường và gốc gác khác nhau – ba người, Nhã Ca, Túy Hồng và Nguyễn Thị Hoàng đến từ Huế, Thụy Vũ sinh trưởng ở miền Nam, và tôi gốc Bắc di cư – bọn “Năm Nữ Quái” chúng tôi, xấp xỉ tuổi nhau, với tôi nhỏ nhất, thường gặp nhau phần lớn trên các trang báo và sách truyện. Cái đặc biệt và dễ thương của giới văn nghệ là nhiều khi không quen nhưng như đã biết nhau từ lâu qua những gì đã đọc được của nhau, nên “tưởng như đã quen.”
Chúng tôi viết phần lớn vì thích viết, vì nhu cầu bộc lộ, và vui khi được các tạp chí nhận đăng, có tí tiền nhuận bút bỏ bóp. Và nhất là vì hiển nhiên là chẳng có ai cấm cản gì, hay bảo đàn bà con gái không được viết văn vì đó là việc của đàn ông, và cũng không ai bảo chúng tôi phải viết gì và viết ra sao.
Cái thời khi bố tôi phán, mới chỉ khoảng nửa thập niên trước đó thôi, là con gái không làm họa sĩ và làm họa sĩ để chết đói à, khi tôi vừa đậu xong hai cái tú tài, và trúng tuyển kỳ thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, cũng đã qua. Và cũng đã qua rồi cái giấc mộng họa sĩ của tôi.
Song tôi cần có chỗ trút ra tâm sự riêng. Tôi chọn viết vì… ít tốt kém — chỉ cần giấy, bút và bầu tâm sự biết-ngỏ-cùng-ai của mình thì đã có sẵn trong đầu. Một trong những truyện ngắn của tôi, truyện “Sao Rụng”, được tạp chí Bách Khoa chọn đăng. Sau đôi ba truyện nữa đăng trên vài tạp chí văn học khác, như Văn chẳng hạn, thế là tôi thành nhà văn mà không hề dự tính, và tôi lạc đường vào văn chương từ đấy.
Khác với bốn chị kia, tôi không có khả năng và sự kiên trì của các chị để viết truyện dài từng kỳ, gọi là feuilleton. Đúng ra tôi có thử, trước sau, ba lần cả thấy. Chỉ có một lần là viết xong, đó là truyện dài “Thành Trì Cuối Cùng” (1970), đăng trên nhật báo Thần Phong. Chủ đề được gợi hứng từ truyện “Người Đàn Bà Trong Cồn Cát” mà tôi vừa dịch xong (từ một bản tiếng Anh) của nhà văn Kobo Abe, nhà An Tiêm nhận xuất bản sau đó.
Tiểu thuyết đăng từng kỳ này là về một cô gái trải qua một mối tình với một phóng viên ngoại quốc song từ chối theo người tình về nước anh ta để ở lại quê hương, hy vọng làm một cái gì đóng góp vào việc duy trì một miền Nam tự do, mệnh danh là thành trì cuối cùng này.
Tập bản thảo đã đánh máy lại, anh bạn nhà văn Nguyên Vũ ngỏ ý muốn để nhà xuất bản Đại Ngã của anh in, nên tôi giao cho anh. Vài bữa sau Nguyên Vũ đến gặp tôi, gãi đầu thú thật không biết để lạc bản thảo nơi nào trong một trong những chuyến đi nhậu say với bạn bè. Tôi chỉ biết cười trừ, gạt chuyện đó sang một bên, vì lúc đó cũng còn đang bận với tờ Sóng Thần.
Tóm lại, sự nghiệp văn chương của tôi, về lượng không là bao, so với của các chị Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng và Nguyễn Thị Thụy Vũ. Họ đã góp phần không nhỏ vào một hiện tượng đáng chú ý, đó là vào thời của chúng tôi, văn chương không còn chỉ là chuyện trà dư tửu hậu hay một trò giải trí cho vui của người cầm bút phái nữ như trong quá khứ, hay như những cây bút tiền bối không xa, như Mộng Sơn, Thụy An, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, là những nhà viết tiểu thuyết phái nữ đầu tiên, mà đã trở thành một nghề nghiệp hẳn hoi, nuôi sống được nhà văn và gia đình.
Về khía cạnh sau này, thực ra các chị không phải là người tiên phong, mà trước họ đã có vài vị khác, nổi bật phải kể tới Bà Tùng Long (1915-2006), tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết vốn có gốc là tiểu thuyết đăng từng kỳ trên báo.
Mời độc giả đón đọc bài viết sắp tới: Phụ nữ viết văn thời Cộng hòa - Kỳ 2: Mảnh đất “mầu mỡ” cho văn học. Đó là nơi kiềng ba chân vững chãi dung dưỡng một đời sống văn học tự do, phong phú. Đây cũng là giai đoạn “thời gian ủng hộ hồng quần” khi những cây bút phái nữ như Thụy Vũ, Túy Hồng, Nhã Ca, v.v. trở thành những nhà văn chuyên nghiệp, sống được bằng nghề viết và góp phần tạo nên diện mạo văn chương miền Nam.
Đọc thêm:
[1] Bài biên khảo này, nguyên tác là “Women Writers of South Vietnam –1954-1975”. Có thể xem các biên khảo khác của tác giả tại trang “Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang”. Viết về các nhà văn nữ còn có một cuốn do Uyên Thao soạn, Các nhà văn nữ Việt Nam, 1900-1970, Nhân Chủ xuất bản, Sài Gòn 1973, nhưng không đầy đủ vì ông chỉ viết về chín cây bút phụ nữ, gồm Thụy An, Mộng Sơn, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng và Trùng Dương. Ngoài ra, tập sách này có tính cách phê bình hơn là nghiên cứu học thuật.
[2] Trong bốn ấn bản của cuốn Văn học miền Nam tổng quan – 1954-1975 của Võ Phiến, chỉ riêng ấn bản thứ ba do nhà xuất bản Văn nghệ ở Westmisnter, California, ấn hành năm 2000, là đầy đủ hơn cả, với Phần Phụ Lục về chiến dịch đốt/cấm sách của Cộng sản Việt Nam sau 1975, phần tác giả tác phẩm liệt kê trên 300 tác giả miền Nam, và danh biểu (index) giúp dễ dàng cho việc tra khảo. Các ấn bản điện tử hiện có trên tienve.org và một số các trang web khác cũng không có ba phần trên. Muốn có cuốn sách điện tử ấn bản thứ ba này, xin vào trang này của Web Tủ sách Tiếng Việt.